Trong đống rác lịch sử (II)

Nguyễn Hữu

banhuNếu nói như ông Phu là chính phủ ông Diệm không dùng những kẻ thiếu tài đức thì Bà Dân biểu Trần Lệ Xuân có tài đức gì?

Đặt vấn đề về trước những sự kiện lịch sử 

Từ vụ Bảo Đại thọc gậy bánh xe vào chính quyền Quốc Gia đến vụ truất phế Bảo Đại và thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa


Trang 85, Việc truất phế Bảo Đại “Có tất cả 18 chính đảng tham dự trong số đó quan trọng nhất là Dân Xã Đảng của Nguyễn Bảo Toàn đại diện, Việt Nam Phục Quốc Hội của Hồ Hán Sơn đại diện và Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến do Nhị Lang đại diện.”
Ông Phu lôi ở đâu ra được 18 chánh đảng vào thời ông Diệm? Ông lấy tài liệu với 18 đoàn thể chứ không phải là chánh đảng rồi cố tình thay chữ. Có phải sự thay đổi chữ nghĩa này với hậu ý là các đảng phái đối lập ủng hộ ông Diệm và ông Diệm không hề đàn áp đảng phái? Ngay với khả năng của một học sinh chưa xong bậc trung học cũng đã phân biệt thế nào là đoàn thể và thế nào là chánh đảng đừng nói là “luật sư”.

Đặt vấn đề: Sự cầm nhầm tài liệu, thay đổi chữ nghĩa này có phải là điều gian dối trắng trợn không? Mục đích của sự gian dối này có hàm ý để biện minh là ông Diệm được các đảng phái đối lập hậu thuẫn cũng như ông Diệm không đàn áp đảng phái không?

Việc trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại được tổ chức quá nhanh, dù ông Bảo Đại ở Pháp có về Việt Nam ngay lúc ấy cũng chẳng còn thời gian và cơ hội để trình bày trường hợp của ông trước dân chúng. Hơn nữa, sự gian lận diễn ra khắp nơi. Ví dụ, ở Sài Gòn-Chợ Lớn chỉ có 450.000 cử tri ghi danh nhưng số người đi bầu ủng hộ ông Diệm là 605.025 (14). Việc gian lận quá mức này còn xảy ra hơn nhiều tại các làng quê, tỉnh lỵ nhỏ nơi mà phần lớn dân chúng vùng thôn quê ít người biết ông Diệm là ông nào hoặc có thành tích gì.

Vua Bảo Đại bị truất phế Nguồn: LIFE
Vua Bảo Đại bị truất phế
Nguồn: LIFE


Chúng ta cũng cần có một nhận xét công bằng về ông Bảo Đại: Ông bị thực dân Pháp bắt đem qua Pháp đào tạo nếu không nói là tẩy não. Khi ông về lại Việt Nam chấp chính, bước đầu ông muốn xây dựng quốc gia với những người người có khả năng nhưng ông bị Pháp ép buộc, bắt ông phải làm những điều bọn thực dân đòi hỏi. Bảo Đại nản chí rồi tuyệt vọng. Trong thời gian ông làm Quốc Trưởng ông đã có ít nhiều tranh đấu nhưng thực dân Pháp không hề có thực tâm muốn trao trả độc lập cho Việt Nam. Sau khi Nhật thất trận, ông cũng đã từng gởi thư kêu gọi người Mỹ, Pháp, Tàu, Anh giúp đỡ và nhìn nhận độc lập cho Việt Nam nhưng không ai muốn đếm xỉa tới ông (15). Đồng ý là ông ham chơi và hoang phí quá nhiều công quỹ nhưng đặt vào hoàn cảnh của ông, chúng ta nên có ít nhiều thông cảm. Ông Bảo Đại không bán đứng tổ quốc cho Tàu, cho Pháp, cho Nhật và là người có lòng nhân vì trong suốt thời gian ông làm vua, ông không lợi dụng quyền lực để hại chết ai. Nếu được sanh ra trong thời buổi khác, chung quanh là những người có tài đức, ông có thể là một minh quân. Chúng ta có đòi hỏi quá nhiều về ông Bảo Đại không khi ông không phải là nhà cách mạng? Đồng ý là việc truất phế ông Bảo Đại là điều đúng trong bối cảnh chính trị lúc ấy vì thực dân Pháp muốn dùng ông làm con bài để gỡ gạc nhưng trong việc truất phế, chính quyền ông Diệm đem hình ông Bảo Đại bêu rếu khắp nơi với những lời thóa mạ thô bỉ có xứng đáng với chữ Lễ không?

Đặt vấn đề: Dù hoàn cảnh chính trị buộc ông Diệm phải truất phế ông Bảo Đại, chính phủ ông Diệm có gian xảo và có nhiều hành vi bất lễ hay không?

Chương III: Những Thành Quả Của Chính Quyền Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hòa

Trang 90, Ông Diệm có “thứ đức hạnh của nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh gồm đủ Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, tức là tứ đoan.”

Đức hạnh của người quân tử Đông phương theo tư tưởng Khổng Mạnh bao gồm Tam Cương (Quân, Sư, Phụ) và Ngũ Thường (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và Tín). Ông Phu tự hào là con nhà Nho, tinh thâm Hán học, vậy tại sao ông chặt bớt đi một đức để chỉ còn là tứ đoan?

Đăt vấn đề: Phải chăng có quá nhiều tài liệu chứng minh là không thể đặt niềm tin vào ông Diệm nên ông Phu đã bỏ đi chự Tín vì không đủ bằng chứng để biện hộ?

Tiết I – Phát triển và bình định nông thôn qua các vấn đề di cư định cư với các chương trình dinh điền, Khu Trù Mật và Quốc Sách Ấp Chiến Lược

Trang 94-101, ông Phu ca tụng sự thành công việc định cư, chương trình dinh điền, xây dựng khu trù mật và ấp chiến lược.

Chương trình định cư dân tỵ nạn Cộng Sản có thể nói là khá thành công nhờ vào sự giúp đỡ phương tiện và tài chánh tận tình của Mỹ, Pháp và các quốc gia trong khối Tự do nhưng điều quan trọng là nhờ vào sự tham gia của mọi tầng lớp dân chúng miền Nam, sẵn sàng giúp đỡ người tỵ nạn Cộng sản miền Bắc.

Chương trình cải cách điền địa là ý hướng tốt nhưng kết quả nhiều hay ít tùy vào địa phương. Ở miền Trung, vì đồng ruộng không nhiều nên chương trình này được tiến hành khá tốt đẹp. Ở miền Nam, chính phủ mua lại ruộng đất của địa chủ có nhiều ruộng (trên 100 mẫu tây) để bán lại với giá phải chăng cho tá điền, tạo có cơ hội cho họ làm chủ ruộng đất. Tuy nhiên, trong thời kháng chiến chống Pháp, ruộng đất ở vùng quê bị bỏ hoang, Việt Minh đã lấy phát không cho tá điền. Do đó, nhiều tá điền cảm thấy bị thiệt thòi hơn là sống với Cộng sản nên dễ bị Cộng sản lung lạc, chưa kể đến những sự phiền toái mà cán bộ thừa hành địa phương đã gây ra trong việc làm giấy tờ, thủ tục.

Việc xây dựng những Khu Trù Mật từ năm 1959 là ý kiến hay nhưng phải bỏ luôn vào năm 1962 vì thành quả quá ít ỏi. Ở một vài nơi do địa thế thuận lợi Việt Cộng không tấn công được, Khu Trù Mật phát triển khá tốt nhưng đại đa số những Khu Trù Mật được lập ra kết quả không như ý. Dù ông Phu có biện hộ là do sự làm việc tắc trách của những người thừa hành nhưng điều chính là do chính sách đui mù, không hữu hiệu. Xây dựng được mà không bảo vệ được để Việt Cộng quậy phá những Khu Trù Mật này, dùng những nơi này làm ổ phục kích quân đội miền Nam đưa đến kết quả quá tồi tệ nên đến tháng ba năm 1962 Khu Trù Mật không còn được xây dựng nữa mà được thay thế bằng Ấp Chiến Lược. Vậy thì có thể coi là thành công hay không? Nếu thành công thì tại sao lại bỏ?

Về Ấp Chiến Lược, một số tài liệu cho là phỏng theo chương trình tiêu diệt Cộng sản tại Mã Lai do ông Robert Thompson thực hiện nhưng có lẽ cũng phỏng theo cách tổ chức làng xã mà Việt Minh thực hành trong những năm chống Pháp. Chính quyền Ngô Đình Diệm tán thành và đem dùng như Quốc Sách. Có nhiều ý kiến cho Ấp Chiến Lược là một sự thất bại lớn vì chính quyền từ trung ương đến địa phương đã cùng nhau ăn bớt của công, bắt dân chúng góp cả công lẫn của, làm việc quá nhiều mà kết quả chẳng tới đâu (16). Tuy vậy, theo những cán bộ Việt Cộng tiết lộ sau 1975, chương trình này đã làm cho đám Cộng Sản nằm vùng khốn đốn, nhiều cán bộ Việt Cộng bị bắt hoặc ra đầu thú vì cạn đường tiếp tế. Dù có nơi thành công, có nơi thất bại, chưa đủ thời gian để đánh giá và kiểm chứng kết quả của Ấp Chiến Lược vì chính quyền sau thời Ngô Đình Diệm bãi bỏ chương trình này.

Đặt vấn đề: Trong bối cảnh đất nước được sự giúp đỡ tận tình của khối Tự do lúc ấy, một chính quyền khác chính quyền Ngô Đình Diệm có làm được những việc mà chính quyền ông Diệm đã làm hay không?

Tiết II: Thống Nhất Quân Đội

Trong một quốc gia độc lập, quân đội phải đứng chung và phục vụ cho quyền lợi quốc gia. Công bằng mà nói, ông Diệm đã hoàn thành việc thống nhất quân đội. Tuy nhiên, qua nhiều tài liệu được phơi bày, cách làm việc của chính quyền ông Diệm thiếu uyển chuyển nếu không nói là khá độc đoán. Ở miền Trung, quân đội quốc gia dưới sự hướng dẫn của Ngô Đình Cẩn tàn sát các lực lượng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng để củng cố quyền hành. Ở miền Nam, sau vụ Bình Xuyên, ông Diệm cho Quân Đội Quốc Gia tấn công quân đội Cao Đài, Hòa Hảo dù nhiều thành viên trong các giáo phái này đã về hợp tác với chính phủ ông Diệm. Dù thống nhất được quân đội nhưng những việc chính phủ ông Diệm đã làm gây công phẫn trong dân chúng đã làm lợi cho Việt Cộng xách động tâm lý quần chúng.

Tiết III – Thống Nhất Hành Chính Tài Chính và Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia
1-Thống Nhất về Hành Chính và Tài Chính

II – Vấn đề Phát Triển Kinh Tế
A – Về Nông Nghiệp

Trang 115, nói về sự phát triển nông nghiệp của chính phủ ông Diệm, ông Phu viết “Đập nước Đồng Cam ở Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên là một bằng chứng cụ thể. Đập nước này được khánh thành ngày 17-9-1955, tích trử thủy lượng cần thiết để tưới nhuần 23,000 mẫu tây ruộng thiếu nước, biến vùng Đồng Cam thành khu vực có hoa màu phong thịnh.”

Có lẽ ông Phu rút tài liệu từ sách của ông Đoàn Thêm ở trang 183 mà không kiểm chứng kỹ là khánh thành việc sửa sang chứ không phải là việc xây dựng vì Đập Đồng Cam do Pháp thực hiện chứ không phải mới có thời Ngô Đình Diệm. Thời gian thực hiện kéo dài từ năm 1923 đến năm 1932 mới hoàn thành với tổng số kinh phí dùng để xây dựng hệ thống dẫn thủy nhập điền đập Đồng Cam lên tới 3 triệu 650 ngàn đồng tiền Đông Dương, chưa kể các chi phí linh tinh ngoài dự tính cũng đến hàng trăm ngàn. Tổng số nhân mạng bị chết vì mìn đá, vì bất cẩn, vì bệnh tật, vì thú rừng… lên đến cả trăm người. Đó là chưa kể hàng ngàn người bị thương tật sau khi đi làm công ích tại đập. “Lễ khánh thành đập tổ chức ngày 7 tháng 9 năm 1932, với sự hiện diện của Toàn quyền Đông Dương M.P. Pasquier.” (17). Thời ông Diệm, đập Đồng Cam được sửa sang ít nhiều sau 9 năm kháng chiến bị hư hại nhưng hệ thống dẫn thủy nhập điền này không phải là do chính quyền ông Diệm xây dựng.

Đặt vấn đề: Ông Phu chụp một dự án quá lớn để tâng công chính phủ ông Diệm mà không kiểm chứng tài liệu. Vậy những sự kiện được trình bày trong sách có đáng tin không?

Tiết IV – Chấn Hưng Văn Hóa Và Đạo Đức

A – Chấn Hưng Văn Hóa

Trang 124, bên cạnh viện đại học vừa thu hồi chính phủ Ngô Đình diệm còn lập thêm “Trung Tâm Cao Đẳng Kỹ Thuật Phú Thọ.”

Theo Giáo Sư Lê Sĩ Ngạc, Trường Cao Đẳng Công Chánh tiền thân của Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ ra đời năm 1902, trải qua nhiều thay đổi. Trong thời ông Diệm, chính quyền cũng tái tổ chức ngày 30-04-1963 như những thời trước hay sau này (18).

Đặt vấn đề: Những thành quả mà quyển sách này nêu ra có nên được xét lại không khi nhiều sự kiện chính yếu sai lạc hay cố tình thêm thắt.

B – Chấn Hưng Đạo Đức

Trang 127, “Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, cũng không theo Phật Giáo, nhất là từ khi bàn thờ Phật bị Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu và nhiều vị họ Thích khác hạ bệ, đem vất giữa đường bụi bặm rác rến nên tôi càng thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm có đạo đức cao hơn nhiều vị linh mục hay sư tăng mà tôi ngẫu nhiên gặp trên đường đời đầy tội lỗi.”

Nếu ông Phu không có niềm tin vào Phật Giáo hay Kitô giáo, điều ấy không có gì đáng nói vì mỗi người đều có đức tin khác nhau nhưng chỉ vì thấy hành động sai trái của một số cá nhân muốn lợi dụng tôn giáo nào đó làm bậy rồi lấy điều đó đưa tới kết luận kiểu vơ đũa cả nắm là tôn giáo ấy có nhiều người thiếu đạo đức thì đầu óc quá hẹp hòi, suy nghĩ thật nông cạn.

Trang 128-129, để biện minh cho việc “lành mạnh hóa xã hội” của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Phu nêu ra những đạo luật bài trừ tệ đoan xã hội.

Luật Bảo Vệ Gia Đình của bà dân biểu Trần Thị Lệ Xuân được ban hành 26-5-1958 (còn được gọi là Luật Cấm Ly Dị) trừ phi được Tổng Thống cứu xét và cho phép. Năm 1962, Luật Bảo Vệ Luân Lý ra đời (còn được gọi là luật Cấm Nhảy Đầm) dù ở tư gia. Việc cấm nhảy đầm ở các phòng khiêu vũ, bài trừ tệ đoan xã hội là điều đáng hoan nghênh trong một quốc gia với hoàn cảnh chiến tranh nhưng trên thực tế luật này cấm ngừa thai, phá thai, cấm đấu quyền Anh, đá gà… Thêm vào đó sắc lệnh 10/62 do Tổng Thống ban hành ngày 16-5-1962 hạn chế quyền tự do cá nhân đến độ dù là những cuộc hội họp trong gia đình cũng phải có giấy phép của Cảnh Sát địa phương. Sắc lệnh số 11/62 thiết lập Tòa Án Quân Sự Mặt Trận tại ba Vùng Chiến Thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không được phép kháng cáo (19).

Người Việt từ ngàn xưa cho đến khi ông Diệm cầm quyền, việc ly dị nhau là việc mà luân lý không tán thành trừ trường hợp chẳng đặng đừng. Với quan niệm “con cái là của trời ban”, việc phá thai, ngừa thai cũng không mấy ai lưu tâm trừ những trường hợp quá đặc biệt. Sắc lệnh 10/62 gây công phẫn cho quần chúng thôn quê vì đại đa số dân chúng hằng năm gia đình nào cũng đều có ngày giỗ, ngày kỵ, bà con, anh em tập trung đông đảo lại phải xin phép làng xã là điều không ai muốn. Với những luật pháp khắt khe nhằm mục đích ổn định xã hội và tận diệt Việt Cộng mà ông Diệm ban ra, kết quả thật là trái ngược. Dân chúng cảm thấy bó buộc, khó thở và càng cảm thấy bất mãn chính quyền hơn. Những luật pháp nêu trên để chấn hưng đạo đức thì ít mà để củng cố quyền hành và đặt ý thức hệ Kitô giáo lên đầu dân Việt thì nhiều hơn.

Đặt vấn đề: Những luật pháp thời ông Diệm nhằm để chấn hưng đạo đức hay còn những mục đích khác?

Chương IV: Những Năm Tháng Bình Trị Đệ Nhất Cộng Hòa

Trang 133-137, ông Phu viết là đời sống sung túc, sự “thái bình, thịnh vượng cho toàn dân, thì đối ngoại phải được sự thừa nhận và ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới. ” trong thời đầu ông Ngô Đình Diệm nắm quyền và được chính quyền Mỹ cùng các quốc gia trong khối Tự do thì nhau “mời làm quốc khách”.

Phải nhìn nhận là sau Hiệp định Geneva, thoát khỏi sự kềm kẹp của thực dân Pháp, phát xít Nhật và sự khủng bố của Việt Cộng chưa phát triển rộng, dân chúng miền Nam sống tương đối yên bình. Với sự ủng hộ của những quốc gia chung quanh và sự viện trợ tài chánh dồi dào của Mỹ, miền Nam đã được chính phủ ông Diệm phát triển nhiều mặt. Tuy vậy, sự yên bình tạm thời này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì trước năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với những con chốt của Cộng Sản Hà Nội chưa ra đời và những phong trào “Đồng Khởi” của Việt Cộng cũng chưa làm được gì. Tháng 1-1961, Hà Nội cho tăng cường đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nên tình hình miền Nam từ đầu năm 1961 không còn yên bình nữa.

Vấn đề ông Diệm được mới làm quốc khách của Mỹ cũng như nhiều quốc gia trong khối Tự do cũng không có gì lạ. Sau khi Liên Xô áp đặt chế độ Cộng Sản lên nhiều nước châu Âu, Mao nhuộm đỏ đất Tàu, Tưởng Giới Thạch bỏ chạy ra Đài Loan và chiến tranh Triều Tiên do Tàu Cộng giật dây mà hậu quả đất nước này bị chia hai, các nước trên thế giới đều sợ hãi. Miền Nam Việt Nam được coi như tiền đồn chống Cộng thì không cần là người có khả năng ngoại giao giỏi, ông Diệm lúc đó được sự hậu thuẫn của khối Tự do và được nhiều nước mời làm quốc khách cũng dễ hiểu.

Đặt vấn đề: Thời ông Diệm cầm quyền, miền Nam Việt Nam có thật sự sống trong yên bình hay chỉ là sự yên lặng trước khi cơn hồng thủy tràn đến?

Chương V: Những Vụ Biến Động Thời Đệ Nhất Cộng Hòa

Vụ ném bom dinh Độc Lập (27-2-1962)

Trang 142, vì vụ ném bom Dinh Độc Lập, ông Phu mang cả tên họ anh em trong gia đình Nguyễn Văn Cử để thóa mạ và chửi ông Nguyễn Văn Lực, cha ông Cử, thậm tệ. Ông Phu viết“Tôi không biết tài năng học vấn của Nguyễn Văn Lực ở trình độ nào, nhưng theo tôi thiển nghĩ y là một người huyênh hoang tự cao, tự đại .”

Có tài năng, học vấn hay không, kẻ huyênh hoang vẫn huyênh hoang. Lối viết của ông Phu hàm ý là nếu có tài năng, học vấn thì việc huyênh hoang, tự cao tự đại được chấp nhận hay sao? Ông Nguyễn Văn Lực không bị đi “học tập cải tạo”, nhiều cán bộ cao cấp trong chính quyền Cộng Sản liên lạc với gia đình ông Lực như “Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt tới nhà y thăm viếng ” (?) và ông Phu kết luận là “cán bộ hai mang, nằm vùng ”.

Việc ông Nguyễn Văn Lực, đảng viên nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng không bị bắt nhốt vào các “trại tập trung cải tạo” hoặc việc các ông “Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt tới nhà thăm viếng” ông Lực , nếu đúng, là điều ông Phu có thể đặt nghi vấn ông Nguyễn Văn Lực là “cán bộ hai mang”. Tuy nhiên, nếu ông Nguyễn Văn Lực là “cán bộ hai mang”, được “Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt tới nhà thăm viếng” nhưng ông Nguyễn Văn Cử bị Việt Cộng nhốt tù đến năm 1985 cũng là điều hơi lạ?

Theo cách lý luận này, những người từng bị Việt Cộng tống vào các “trại cải tạo” cũng có thể đặt vấn đề với ông Lê Nguyên Phu, Giám Đốc Hiến Binh thời ông Diệm mà Việt Cộng vô cùng thù ghét, là tại sao ông không bị nhốt vào tù sau 30-04-1975 trong khi đại đa số quân nhân, công chức dù không còn tại chức khi Việt Cộng chiếm miền Nam vẫn bị bắt vào những trại lao động khổ sai và nhiều người đã bị hành hạ đến chết. Điều này chỉ là cách lý luận ông Phu thường dùng mà không phải là câu hỏi.

Đặt vấn đề: Vì sao ông Nguyễn Văn Cử ném bom vào Dinh Độc Lập? Có phải ông Cử ném bom vì uất ức, bất mãn chính phủ ông Diệm hay là còn những lý do khác?

Vụ Binh Biến 11-11-1960

Trang 158, ông Phu phán: “Tố cộng là tố cộng và đối lập trong hàng ngũ quốc gia đâu phải là Cộng sản, trừ phi Cộng sản trá hình làm đối lập.”

Đây là lối tung hỏa mù của Việt Cộng mà nhiều người từng nghe: “Phản Cách Mạng là Phản Cách Mạng và trí thức trong nhân dân không phải là Việt Gian, trừ phi Việt Gian trá hình trí thức” để thanh trừng trí thức không đi theo “đường lối của Đảng”. Nhiều người thời ông Diệm cầm quyền bị bắt do chương trình Tố Cộng này mà họ không phải là Việt Cộng nhưng có tham gia đảng phái chống Pháp như Đại Việt Quốc Dân Đảng hoặc Việt Nam Quốc Dân Đảng. Theo nhiều tài liệu thì chương trình “Tố Cộng” đã đẩy không ít những thành phần kháng chiến cũ nhưng không phải là Cộng Sản gộc vào con đường phải hợp tác với Việt Cộng. Nhiều cán bộ địa phương đã dùng chương trình này để làm tiền dân chúng. Những việc này làm dân chúng công phẫn và nảy sinh cảm tình với những người chống đối chính quyền ông Diệm.

Đặt vấn đề: Cán bộ địa phương có lạm dụng chương trình Tố Cộng của chính phủ ông Diệm để làm tiền và bắt oan nhiều người không? Chương trình này có gây khó khăn cho những phần tử quốc gia và đẩy một số người này vế phía Việt Cộng không?

Trang 160-180, nhiều trang sách được dùng để bới móc đời tư các ông Vương Văn Đông và những đảng viên Cần Lao như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hữu Dương, Nguyễn Quang Sanh, Huỳnh Văn Lang…, khinh khi là “ít học”, “dốt nát”, “bộ hạ trung tín của Pháp”, “hống hách”, “khéo lừa gạt”… để chứng minh là “chính quyền thực sự không có kỳ thị đảng phái”.

Có thể những kẻ mà ông Phu nêu tên thuộc loại “vô tài, vô đức”. Vậy thì tại sao được ông Nhu kết nạp vào đảng Cần Lao và nắm các chức vụ quan trọng trong chính quyền ông Diệm? Vậy thì chính phủ ông Diệm có phải thích được loại xu nịnh làm tay sai hay không? Đảng Cần Lao ấy có phải là chỗ để tập hợp những kẻ xu nịnh “núp bóng” không?

Đặt vấn đề: Trong bối cảnh chính trị, xã hội của trước năm 1963, những người chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là để thỏa mãn tham vọng cá nhân hay là do sự bất mãn với chính quyền ông Diệm trong việc đàn áp đối lập hơn là chống Cộng?

Những nhân vật quận sự cũng như dân sự đã liên can với Vương Văn Đông trong vụ Binh Biến 11-11-1960

Về phía quân sự

Trang 180-181, các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Phạm Xuân Chiểu đều biết nhưng không tham gia vì “mặc cảm tự tôn, không tham gia vào một vụ đảo chính do đàm em cầm đầu.”

Điều này có thể đúng nhưng không chỉ là do mặc cảm tự tôn mà thôi mà phải nói là họ thấy chưa có hậu thuẫn, sợ bị thất bại thì đúng hơn. Nếu các “ông tướng” này đồng ý với ông Vương Văn Đông thì việc ai lãnh đạo có thể dàn xếp mà.

Về phía dân sự

Trang 185, những người trong nhóm Tinh Thần đều “là những người nhút nhát, không có lập trường vững chắc, nên sau đó đã ly khai với Ngô Đình Diệm bằng cách xin từ chức, vì sợ thế lực của Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo và vì không tin tưởng rằng sự thông nhất quân đội của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sẽ thành công ”. và “từ khi từ chức họ thường hội họp ăn nhậu tại nhà hàng Caravelle”.

Luận điệu này được ông Phu lập đi lập lại nhiều lần nhằm bôi nhọ những người trong nhóm Caravelle. Có lẽ không phải vì họ rút lui hoặc bị buộc từ chức khỏi nội các ông Diệm năm 1954 mà vì Bảng Tuyên Cáo họ gới cho ông Diệm làm cho cả trong nước lẫn ngoài nước để ý đến những việc làm của chính phủ ông Diệm. Ngày 26-04-1960, nhóm Caravelle ra tuyên cáo kêu gọi ông Diệm hãy khẩn cấp thay đổi chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ để có thể cứu vãn tình thề và đưa đất nước ra khỏi cơn nguy biến trước hiểm họa Cộng Sản vì “những vụ bắt bớ liên tục tiếp diễn làm cho nhà giam và khám đường đầy đến tận nóc như hiện nay đang xảy ra; dư luận quần chúng và báo chí phải câm lặng. Cũng thế, ý dân bị khinh nhục và chà đạp trong những cuộc đầu phiếu (ví dụ trường hợp xảy ra trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 mới đây). Tất cả những điều này đã gây ra sự nản chí và bất mãn của dân chúng.” (20) nhưng ông Diệm không để mắt tới. Một số người trong nhóm Caravelle đã bị chính quyền ông Diệm bỏ tù vì nghi ngờ có dính líu đến vụ binh biến 11-11-1960.

Điều đáng để ý ở đây là trong mục viết về vụ đụng độ với Bình Xuyên, ông Phu cho là những người này bị áp lực của Pháp và Bình Xuyên mà từ chức. Trong mục này, ông Phu lại bịa thêm là Cao Đài và Hòa Hảo nữa. Chữ “ăn nhậu” mà ông Phu viết ở đây đã để lộ sự ghen ghét rõ ràng vì ông không có chứng cớ là họ say sưa, ăn nói bậy bạ kiểu “tửu nhập, ngôn xuất”. Qua cách viết, cách lý luận và chứng cớ không minh bạch khi viết về nhóm Caravelle, ông Phu đã để lộ sự sự thêu dệt rõ ràng.

Trang 186, ông Phu bôi nhọ ông Phan Quang Đán, Nghiêm Xuân Thiện là “có quá khứ không sáng sủa”“thân Pháp”. Về ông Hoàng Cơ Thụy, ông Phu đem chuyện tình cảm gia đình ông Thụy là “Thụy đã cố ý để cho vợ mình “giao du thân mật” với một ông tòa ở tòa án hỗn hợp thời Quốc Trưởng Bảo Đại, lợi dụng ông nầy trong các vụ kiện mà Hoàng Cơ Thụy đứng tên biện hộ”để nhục mạ và cho là ông Hoàng Cơ Thụy “vì quá nhơ bẩn như trên nên không được mọi người tin tưởng.”

Dù có là chính “ông tòa ở tòa án hỗn hợp” ấy, ông Phu cũng chưa chắc biết được đích xác là ông Thụy “cố tình để cho vợ mình “giao du thân mật” với ông hay là bị “cắm sừng” hoặc có những lý do khác? Điều này chưa chắc đã đúng qua những lời đồn đãi kiểu chuyện bé xé ra to của những kẻ tự cho mình thanh cao và cũng là thủ đoạn bôi nhọ của những kẻ làm “chính trị xôi thịt”. Huống chi, dù chuyện này có thật sự xảy ra, đây là vấn đề tình cảm riêng tư mà những người ngoài không hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh. Ai là người không có những lỗi lầm? Nếu chỉ vì những lời đàm tiếu từ những kẻ ngồi lê đôi mách mà không có chứng cớ rõ ràng, chúng ta có nên đem ra phóng đại trong những tác phẩm “Khảo luận Lịch Sử” đứng đắn hay không?

Đặt vấn đề: Vì sao ông Phu luôn luôn tìm cách thóa mạ những người trong nhóm Caravelle? Có phải vì những người này đã ký tên vào Bản Tuyên Cáo ngày 26-04-1960 kêu gọi ông Diệm hãy thay đổi chính sách để người dân miền nam Việt Nam có thể tham gia vào mục đích xây dựng quốc gia trước hiểm họa Cộng sản hay không? Vì sao ông Hoàng Cơ Thụy chống đối chính quyền ông Diệm?

Về cái chết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

Trang 190, viết về cái chết của nhà văn Nhất Linh, ông Phu cho là ông Nguyễn Tường Tam“không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất trước tòa, vì đó là một điều sỉ nhục, mất thể diện trọng đại”. Ông Nguyễn Tường Tam đã để lại mảnh giấy cho biết là “không muốn bị xét xử trước tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin để lịch sử phán xét ông về sau”. Do mảnh giấy ấy, ông Phu đưa ra kết luận là “đã chắc chắn hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung ông vẫn còn chưa đạt, vì chưa dứt bỏ được tham vọng lợi danh của mình, chưa giác ngộ được hành vi tốt hay xấu của mình đối với anh em đồng chí, mà vẫn còn hynh [huyênh] hoang tiếp tục dối trá người đời”.

Trang 191, ông Phu phán thêm ông Nguyễn Tường Tam “nói không muốn để tòa án chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử ông, nhưng thực sự khi ông ra khai tại Phòng Dự Thẩm Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt thì ông đã bị tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử rồi, vì trong cơ chế pháp lý, Dự Thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt, có quyền định danh của can phạm, cải tội danh, ra lệnh miễn tố hay truy tố ra tòa khi tội danh đã được xác định.”

Có nghi vấn cho là nhà văn Nhất Linh tự tử do bệnh thần kinh suy nhược nhưng vấn đề ở đây là mảnh giấy mà nhà văn Nhất Linh để lại. Dù có âm mưu chống đối chế độ ông Diệm hay không, ông Nguyễn Tường Tam chọn cái chết thay vì ra tòa có phải là để bảo toàn danh lợi hay không? Lợi gì nữa khi con người đã chết? Hành vi xấu tốt đối với anh em, “đồng chí” thì để những người này phán xét, ông Phu là kẻ ngoại cuộc biết gì mà xía vô. Ông Phu không nêu rõ là ông Nguyễn Tường Tam huyênh hoang dối trá điều gì và với ai? Việc ông Nguyễn Tường Tam khai báo thế nào không ai biết rõ nhưng việc ông Nguyễn Tường Tam để lại mảnh giấy không chấp nhận tòa án của chế độ Ngô Đình Diệm là sự thật.

Bị Tòa án Quân Sự Đặc Biệt kêu hỏi khẩu cung là một việc nhưng chấp nhận để cái Tòa án mà nhiều người cho là của lũ côn đồ, chó săn xử án theo chỉ thị của chế độ ấy xét xử là một việc khác nữa. Huống chi, cái “cơ chế pháp lý” thời ông Diệm với luật pháp dành cho các thành phần đối lập là “phá rối trị an” cũng chẳng khác gì luật pháp của Việt Cộng. Nhiều người Việt tỵ nạn Cộng Sản cũng từng bị chính quyền Việt Cộng kêu ra những “Ủy Ban Nhân Dân” để thẩm vấn là một việc và sự liều chết để lánh xa cái chính quyền khốn kiếp ấy là một việc khác nữa. Đối với nhiều người, hành động tự xử của ông Nguyễn Tường Tam là hành động can trường, bất khuất mà đối với những kẻ nịnh bợ, hèn nhát làm sao hiểu được. Chúng ta hãy để lịch sử phán xét ông như lời ông để lại.

Đặt vấn đề: Dù căm hận chế độ Việt Cộng, đại đa số chúng ta có đủ can đảm đứng lên chống đối hoặc lấy cái chết để tự xử hay không? Mảnh giấy nhà văn Nhất Linh để lại có tố cáo chế độ ông Diệm không? Cái chết của ông Nguyễn Tường Tam có góp phần vào việc làm sụp đổ chế độ ông Diệm hay không?

Phần II – Ngô Đình Diệm Từ Thành Công Đến Sụp Đổ Vì Vụ Đảo Chánh 1-11-1963

Trang 199, vu đảo chính 1-11-1963 “bắt nguồn từ quyền lợi của đế quốc Mỹ xung đột trực diện với quyền lợi Quốc Gia Việt Nam” rồi ở trang 200 ông Phu cho là “Mỹ muốn đưa vào vòng lệ thuộc Mỹ một cách hoàn toàn, từ quân sự, chính trị, ngoại giao, đến kinh tế, xã hội… ”

Trong bối cảnh khi đệ nhị thế chiến đã kết thúc, người Mỹ cần sự hậu thuẫn của Pháp trên mặt trận chống Cộng ở châu Âu nên thay thế vai trò của Pháp, dùng miền Nam như tiền đồn để chặn làn sóng đỏ tràn ngập khắp Á châu mà không phải là quyền lợi kinh tế. Trong giai đọan này, chính quyền Mỹ không phải là muốn miền Nam Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền họ nhất là về mặt kinh tế vì không quốc gia nào muốn mang gánh nặng kinh tế, tài chánh đài thọ cho một quốc gia khác trừ trường hợp bất đắc dĩ.

Khi bỏ tiền ra viện trợ cho miền Nam trong chiến lược mà người Mỹ nghĩ là sẽ đem lại an ninh chung cho cả khu vực, chính quyền Mỹ cũng cần phải xem số tiền họ bỏ ra đạt được thành quả nào không. Với những tài liệu đã được phơi bày, chúng ta thấy là từ khoảng năm 1960 trở đi, người Mỹ nghĩ rằng ông Diệm đã không hoàn toàn hợp tác với họ trong chiến lược chống Cộng mà chỉ yêu cầu họ làm những điều có lợi cho chính phủ ông. Hơn nữa, thái độ của ông quan trong buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến vẫn còn đầy ắp trong đầu ông Diệm, người Mỹ quen với kiểu dân chủ Tây phương cho rằng ông độc tài, độc đoán.

Từ năm 1961, dù có những báo cáo sai lầm, chính quyền Mỹ vẫn thấy rằng tình hình mất an ninh xảy ra khắp nơi, dân chúng vùng thôn quê sống trong cảnh phập phòng vì những cuộc tấn công đốt làng, phá xóm, giết người để uy hiếp tinh thần của Việt Cộng càng ngày càng lan rộng mà chính phủ ông Diệm không đối phó hữu hiệu được. Bên cạnh đó, sự đàn áp đảng phái dẫn đến việc tầng lớp trí thức xa lánh chính phủ ông Diệm và Cộng Sản Hà Nội qua đám chim mồi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rêu rao, khích động những kẻ ngây thơ nhưng hám danh. Trong khi đó, những đòi hỏi ngân khoản viện trợ cho chiến tranh ngày càng tăng cao. Nhân biến cố Phật Giáo 1963 xảy ra gây dư luận không tốt cho chính quyền Mỹ khắp thế giới, người Mỹ quyết định thay thế ông Diệm bằng một chính quyền khác mà họ nghĩ là có thể điều khiển theo chiến lược chống Cộng từng giai đoạn. Vì vậy, nói rằng nguyên nhân đảo chánh bắt nguồn “từ quyền lợi của đế quốc Mỹ xung đột trực diện với quyền lợi Quốc Gia Việt Nam” mà không trìng bày là quyền lợi gì và “Mỹ muốn đưa vào vòng lệ thuộc Mỹ một cách hoàn toàn, từ quân sự, chính trị, ngoại giao, đến kinh tế, xã hội… ” là những phán đoán vu vơ, kết luận ngốc nghếch mà không dựa vào bối cảnh lịch sử.

Đặt vấn đề: Chính quyền Mỹ đặt vấn đề kinh tế hay là chiến lược khi thay thế vai trò người Pháp tại miền Nam Việt Nam? Những lý do nào dẫn đến cuộc đảo chánh 1-11-1963?

Trang 200, Chính quyền Ngô Đình Diệm là “một chính quyền ổn định, được sự ủng hộ của đa số dân chúng, nhất là dân chúng miền thôn quê.”

Sự ủng hộ ông Diệm của đa số dân chúng miền thôn quê là điều hoàn toàn khác như ông Phu nghĩ. Vào những năm trước 1963, đối với đa số dân chúng các vùng thôn quê đời sống bình dị gắn liền với mảnh đất, ai “làm quan làm tướng” họ cũng ít để ý, ít người chịu tìm hiểu người cầm quyền tối cao thế nào thì sự ủng hộ hay không ủng hộ ông Diệm cũng chỉ là trên hình thức. Thời ấy, hỏi tên ông xã trưởng thì dân quê biết rõ vì có ít nhiều liên hệ trực tiếp và biết mặt biết tên, quận trưởng thì ít hơn nhiều còn tỉnh trưởng thì không bao nhiêu. Nhớ lại cuộc bầu cử năm 1961 ở làng quê, khi bầu xong có người hỏi là bầu cho ai thì nhiều người nói là “ông xã Tư dặn là bầu cho ông Ngô Đình Điếm đấy!”

Trang 200 – 201 Ông Phu ví ông Diệm là cha mẹ còn dân chúng là con cái. Ông Phu so sánh những ý kiến của dân chúng về ông Diệm như thái độ của con cái là “sự bất mãn, ganh tỵ, thương ghét, không thể nào né tránh được”.

Cái ý tưởng của đám khuyển Nho coi việc nắm chức vụ hay làm quan là đóng vai trò “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân), muốn hành xử thế nào cũng được mà quên là “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân mới quý, đất nước kế theo, vua chỉ là thứ yếu), đặc biệt là đám khuyển Nho có chút cặn bã do Pháp nhét vào đầu lại càng nguy hại. Người Pháp đã đi nhưng để lại hậu quả là trong đầu óc nhiều người Việt Nam là quá xem trọng bằng cấp và chức vụ đến nỗi nhiều người ngoại quốc cho rằng “trong đầu óc mỗi người Việt Nam đều có một ông quan”. Điều này cũng là một trong những yếu tố ngăn trở sự tiến bộ cho xã hội Việt Nam ngày nay.

Trang 201, “Ngô Đình Diệm không dùng những chính trị gia xôi thịt, dễ bị mua chuộc, đã bị lấm bùn từ những triều đại trước, và loại bỏ những người thiếu tài đức chuyên làm tay sai cho ngoại bang nên bị chỉ trích là độc tài, độc đoán, không dung nạp đảng phái đội lập.”

Nhìn lại đám tướng lãnh như Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Xuân Chiểu… và một số những kẻ “bầy tôi” thân tín của ông Diệm, ông Nhu mà chính ông Phu nêu tên trong sách của ông đều là những kẻ được anh em ông Diệm “ban ân huệ ” và bao che. Nhiều người trong đám tướng lãnh và “bầy tôi” của ông Diệm đã bị mua chuộc, bán đứng anh em ông Diệm qua nhiều hình thức như báo cáo, rỉ tai với người Mỹ hoặc hùa vào việc phỉ báng ông Diệm, ông Nhu sau 1-11-1963. Vậy thì những người hợp tác lâu dài với chính phủ Ngô Đình Diệm là bọn xôi thịt, dễ bị mua chuộc hay là những người không hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm là bọn xôi thịt?

 

 Bà Trần Lệ Xuân (1956) Nguồn: LIFE

Bà Trần Lệ Xuân (1956)
Nguồn: LIFE


Đặt vấn đề:
Những chính khách không hợp tác với chính phủ ông Diệm hay là những người nịnh bợ anh em ông Diệm là đám xôi thịt? Nếu nói như ông Phu là chính phủ ông Diệm không dùng những kẻ thiếu tài đức thì Bà Dân biểu Trần Lệ Xuân có tài đức gì?

(Còn tiếp phần III, Kết)

© 2010-2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


(14) Bernard B. Fall, Sđd, trang 257.
(15) Bernard B. Fall, Sđd, trang 206-207.
(16) Lê Xuân Khoa, Sđd tranng 447-448.
(17) Phan Long Yên, Đập Đồng Cam, http://saigontimesusa.com/bai/gtqm/dapdongcam.shtml
(18) Trường Kỹ Thuật Phú Thọ, http://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_%C4%91%E1%BA%B3ng_C%C3%B4ng_Ch%C3%ADnh
(19) Lê Xuân Khoa, Sđd, trang 435.
(20) Benard B. Fall, Sđd, Manifesto of the Eighteên, trang 435.