30 tháng 4 – Ði tìm thời gian đánh mất (p4)

Nguyễn Văn Lục

la-tent-city

Từ ngày Cách mạng vào đến giờ, tôi tự hỏi: đã có một ngày, đã có việc gì làm cho chúng tôi vui? Chưa. Chỉ có những chuyện buồn, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Thế giới chia cách từ chỗ đó.

(Tiếp theo p1, p2, p3)

Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, và Lý Quý Chung. Nguồn DCVOnline tổng hợp.
Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, và Lý Quý Chung. Nguồn DCVOnline tổng hợp.

Trong vấn đề đi học tập này, chắc cần phải nói thêm cho rõ. Có vài người trong chính quyền mới là các ông Năm Xuân, Mai Chí Thọ và ông Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt, ông Sáu Ngọc, giám đốc công an thành phố rồi Sáu Đức, tỏ ra nới tay đối với một số trí thức miền Nam. Không có mấy ông này thì nhiều người cũng khốn khổ lắm. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận, sau 30/4/75, lãnh đạo đã cho ông một đặc ân là lên danh sách những người được đi học tập cải tạo riêng. Ông Nhuận có kể trưởng hợp Dương Văn Ba bị lọt sổ (DVB). Can thiệp mấy cũng không được. Ông Tạ Bá Tòng thì cứ nhất định phải đưa DVB đi học tập. Đến phút chót, ông Tòng mới xét lại và miễn cho DVB khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Có những anh đã được can thiệp như dân biểu Thạch Phen, đại uý quận trưởng, gốc Khmer hay Trần Ngọc Giao đã được miễn học tập tập trung… Nhưng về địa phương thì lại khác, bị bắt, rôi được thả, rồi cả hai ông đều chết. Không có ông Mai Chí Thọ thì ông Nguyễn Chức Sắc, chồng bà dân biểu Kiều Mộng Thu hay dân biểu Lê Tấn Trạng làm sao thoát cảnh tù đầy.

Cũng cần nhắc lại ở đây là thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) đã đánh giá khá tích cực ba thành phần sau đây sẽ là những yếu tố thuận lợi sau này trong việc xây dựng, tái thiết và phát triển miền Nam. Bỏ qua ba yếu tố này sẽ là những bất lợi bất cập gây trở ngại cho việc tái thiết và phát triển miền Nam.

Đó là 3 thành phần cơ hữu của chế độ cũ cần được đánh giá đúng mức: Người Việt gốc Hoa, viên chức và sĩ quan chế độ cũ và khối người Thiên Chúa giáo.

Rất tiếc, sự đối xử phân biệt với người Hoa cũng như việc trục xuất người Hoa ra khỏi Việt Nam, việc đánh tư sản mà phần lớn là người gốc Hoa, việc bắt viên chức cũng như sĩ quan đi học cải tạo lâu ngày đã đưa đến thảm cảnh “boat people” như mọi người đã thấy. Việc trục xuất khâm sứ toà thánh và các thừa sai ngoại quốc mà theo đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch là nên duy trì tòa Đại sứ Hoa Kỳ để cho việc bang giao quốc tế không bị gián đoạn.

Nếu đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch, một người có kinh nghiệm về những bang giao chính trị trên thế giới, được chấp nhận, thì đã hẳn có thể tránh được nhiều thảm họa cho đất nước.

Cơ hội xây dựng đất nước đã một lần để hụt tay.

“Nào ai tỉnh? Nào ai say? / Chí ta ta biết, lòng ta ta hay” – Thơ: Nguyễn Bá Trạc

Một chuyện vui kể lại. Gia đình tôi có dịp đón tiếp anh chị Kim, con nhà bác từ Hà Nội vào. Anh chị cũng hiền lắm. Hình như cũng không được khá giả gì. Anh có cô con gái là nữ ca sĩ nổi tiếng miền Bắc lúc bấy giờ. Giọng cháu lanh lảnh, thánh thót, sắc cạnh, cao vút, nhưng không truyền cảm lắm. Nghe vẫn chưa quen, thấy thế nào ấy. Thấy hay, nhưng vẫn không cảm được. Cho cái gì, anh chị cũng nhận mang về, tất cả chỉ là đồ cũ. Tôi có chai rượu Black and White để dành, nhân dịp đó mang ra đãi anh. Hình như chỉ qua chầu rượu thứ hai, anh đã say mèm. Say rồi, anh chả giữ ý tứ, chả rào trước đón sau, chả nói theo bài bản nữa như lúc mới đến. Anh lộ nguyên hình hài là anh, con người thật. Anh chửi hăng quá, chửi cho đã như thể chưa bao giờ có dịp để chửi như thế, như thể đã nhịn nhiều năm. Anh chửi những nhân vật đời thường anh chỉ biết tụng niệm. Xin đổi câu thơ này ra để tặng anh.

“Sống mình không được nói,
Chết mới được ra lời.”

Anh không chết, nhưng rượu vào làm anh chết giả và lúc đó anh mới sống thật với lòng mình. Tôi chỉ buồn cười. Cũng thương anh rồi dìu anh đi ngủ. Chị ấy thì sáng hôm sau có vẻ rất băn khoăn khổ sở về bữa rượu hôm trước. Tôi thì thấy thường quá, say nói lăng nhăng ai chấp làm gì. Từ đó, anh chị không bao giờ vào chơi nữa. Thật đáng tiếc.

12 tháng 6, 1975. Mỹ gửi đến tòa Đại sứ Việt Nam một thông điệp

Thông điệp này do sứ quán Mỹ ở Paris gửi đến sứ quán của Việt Nam ở Paris:

“Về nguyên tắc, Mỹ không thù hận gì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra.”

Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris

Sau đó có buổi họp giữa ta và Mỹ, cấp bí thư thứ nhất ngày 10/07, giữa ông Đỗ Thanh và Pratt chính yếu bàn về vấn đề MIA. Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ, Mỹ có thể đóng góp khôi phục lại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, hợp tác kinh tế.

Và theo ông Trần Quang Cơ, nguyên thứ trưởng ngoại giao Công Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), “năm 1977 ta đã có đủ khả năng để ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng ta đã bỏ qua.” Thật là đáng tiếc.

Thứ bảy 14 tháng 6, 1975, thay đổi giờ thay đổi đời

Kể từ sáng nay, giờ Hà Nội (GMT-7) thay thế chính thức cho giờ ở Sài Gòn (GMT- 8). Đây là một thay đổi duy nhất mà người Sài Gòn không ai để ý tới. Chuyện thay đổi cả đời người còn chưa lý tới, một giờ thì nhằm nhò gì. Bây giờ là giờ của cách mạng hiểu theo nghĩa nào cũng đúng cả: Giờ của lịch sử, giờ của người chiến thắng.

Chỉ có kẻ thua trận là không có giờ và dĩ nhiên không có cả tương lai nữa.

Gia đình tôi lại có dịp tiếp đón một ông chú bên nhà vợ. Mọi người gọi là chú Tiến. Nghe nói, hình như chú là thứ trưởng bộ kinh tế thì phải. Tội nghiệp chú, các bà cô vợ tôi được dịp chửi rủa xả láng, nói bóng nói gió, chê bai đủ thứ. Chú chỉ cười. Chú chả thèm xin bất cứ thứ gì, có cho chắc cũng không lấy. Chú giầu chăng? Phần tôi, phải nhận tôi quý mến chú, dù ông chỉ hỏi thăm tôi một hai câu.

Giống anh chị Kim, ông chỉ tới thăm một lần và không bao giờ trở lại.

Dù sao, có bà con ở phía cách mạng cũng lợi, vì có thể chửi mà không sợ đi tù.

Thứ ba, 17 tháng 6, 1975, tất cả các ngân hàng tư nhân đều bị đóng cửa.

Tất cả tài sản và tiền của các ngân hàng đều phải chuyển giao về ngân hàng quốc gia Việt Nam. Tất cả các hãng xưởng, nhất là của người Pháp đều rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động được. Đó là các hãng Citroen, các đồn điền cao su, các hãng nước ngọt, v.v. Họ phải chuyển giao hãng xưởng, tài sản tư nhân phải bán, ra đi với hai tay trắng. Lời hứa của tướng Trần Văn Trà, ủy ban quân quản thành phố vào ngày 8 tháng năm trước đại diện 120 đại diện báo chí ngoại quốc không còn ai nhắc tới nữa: “tất cả các tài sản của người ngoại quốc sẽ được bảo đảm tôn trọng.’’ Theo ông Duchemin đã được Mai Văn Bộ trấn an: “Người Pháp cứ việc yên tâm ở lại làm ăn.”

Cái mà chính phủ nhắm tới là Người Tầu đang nắm giữ việc thương mại, buôn bán ở Chợ lớn. Nhưng chính phủ còn chưa ra tay. Mặc dầu vậy, những người Tầu có tiền của cũng đã chuẩn bị trong tay một giấy thông hành Đài Loan rồi.

Đừng quên rằng, sau những người Tàu Chợ Lớn, còn có cả một nước Tầu đứng sau họ.

Thứ bảy 21 tháng 6, 1975, giáo dục dưới mái trường XHCN

! tháng 5, 1975: quân nhân VNCH thay thuưường phục bỏ lại vũ khi sau cổng trường đại học Vạn Hạnh. Nguôn: Claudia Krich
1 tháng 5, 1975: quân nhân VNCH thay thuưường phục bỏ lại vũ khi sau cổng trường đại học Vạn Hạnh. Nguôn: Claudia Krich

Ngoài các trường công đã được hoạt động ngay những ngày đầu giải phóng, nay một số trường tư và trường chuyên môn dạy nghề được phép mở cửa, hoạt động trở lại. Đây là cái cửa mở đầu tiên được mở ra. Nhưng coi chừng, cửa chỉ mở hờ. Trường Regina Pacis nay không còn dạy giáo lý hay đọc kinh mà thay vào đó là những bài hát ca tụng Bác Hồ.

Các trường đại học cũng mở cửa lại, nhưng chưa có chính thức giảng dạy. Các chức Viện trưởng, khoa trưởng đều từ ngoài Bắc vào nắm giữ. Chuyên với hồng bắt đầu từ đây. Đây là keo thử thách nữa về sự phân biệt thế nào là chuyên, là hồng.

Đất nước tiến lên hay thụt lùi cũng từ chỗ này.

Lại có vụ ám sát giết hai bộ đội sáng nay ở đường Trần Hưng Đạo. Họ bị cứa đứt cổ. Chẳng biết là thật hay giả. Dù sao, những tin tức kiểu đó cũng là món ăn giải trí và bổ đưỡng cho những kẻ thua trận.

Các giáo sư tuần tự đến trường đều đặn. Không bảo nhau mà trong trường chia ra phe phái rõ ràng không có quy ước và không có giới tuyến. Anh Hiệu trưởng cu ky một mình. Anh kín đáo quá. Hiệu phó lăng xăng vẫn không che đậy hết cái gốc tư sản của anh. Mọi việc giao tiếp, xử lý, hình như anh đại diện hiệu trưởng lo liệu. Một anh trẻ tên Hùng, đang là đoàn viên, rất gương mẫu, rất kỷ luật, rất khe khắt với chính mình và đồng nghiệp. Con mắt có vẻ soi mói mọi người, mọi chỗ. Anh cũng cu ky một mình theo cách của anh. Sau này, anh tình nguyện đi lính sang Campuchia. Anh đã không có cơ hội trở về. Cùng lắm anh có Hương, một đoàn viên khác là bạn đồng hành. Nhưng tuy không nói ra người ta vẫn đọc được tâm sự ẩn kín của Hương. Ánh mắt lúc nào cũng gợi buồn, sự cố gắng đến mệt mỏi, nụ cười gượng gạo. Hoá ra, số phận Hương có thể còn khổ gấp đôi lần những người bạn đồng nghiệp. Một số nữ giáo viên lớn tuổi mà có thể chồng con đi học tập, họ làm việc, tuân thủ như cái máy không hồn. Một cuộc sống bất đắc dĩ. Một cuộc sống mơ về một cuộc sống ở một nơi nào khác.

Đa số giáo viên trẻ còn vui đùa hồn nhiên họp thành một đám. Hố thẳm rơi của những người cùng thân phận. Nhiều tình cảm nẩy nở giữa họ do cùng tâm trạng, cùng hoàn cảnh, cùng suy nghĩ. Ít lắm, có vài đồng nghiệp trẻ mà nhen nhúm quý mến nhau hết mực, trân trọng hết mực, bảo vệ nhau hết mực, cho mãi đến về sau này.

Điều mà người ta không hề có, điều mà người ta không có dịp để sống trong những thời gian trước 75.

Thứ sáu 27 tháng 6, 1975, các tin đồn mỗi ngày mỗi nhiều.

Có bốn bộ đội canh gác ở ngay trong thư viện quốc gia bị giết. Hai bị đâm chết, hai bị cắt cổ. Trong ngày, nhiều tiếng nổ lớn được nghe thấy từ phía Tân Sơn Nhứt. Hai thường dân cưỡi Honda bị bắn hạ trước cửa toà lãnh sự Pháp vào lúc 4 giờ. Đến 20 giờ tối, hai người đi trên xe Honda ở góc Phan Thanh Giản, Phan đình Phùng bắn chết ba bộ đội.

Tin đồn như thức ăn hằng ngày của dân Sài Gòn.

10, tháng 7, 1975, tờ báo “Công giáo và dân tộc”, tiếng nói của chính quyền.

Sau đúng 10 tuần lễ, một tờ báo công giáo được xuất bản:

Báo CGvDT trên mạng (2016). Nguồn: OntheNet
Báo CGvDT trên mạng (2016). Nguồn: OntheNet

Tờ Công giáo và Dân tộc do nhóm Trương Bá Cần, hay nói ngược lại là Trần Bá Cường, Vương Đình Bích, Phan KhắcTừ, Huỳnh Công Minh điều hành. Họ là người của Cộng sản. Xin ghi lại đây lời của Vương Đình Bích:

“Đảng Cộng Sản đã gây dựng 4 người chúng tôi làm đầu não mọi hoạt động của đảng trong giới Công giáo.’’

Vương Đình Bích

Phần Huỳnh Công Minh, khi được chọn làm đại biểu Quốc Hội đã phát thệ, “Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ.’’

Trong một bài viết trên Tin nhà, số 43, 2000. Nguyễn Hữu Tấn Đức gọi bọn bốn ông này là “Prêtres et commissaires”. Linh mục và cán bộ. Thật ra tiền thân của nó là từ một tờ báo Công Gíao và Dân Tộc (CGDT) ở giáo xứ Paris, từ 69-75 do ông Nguyễn Đình Thi đứng đầu. Nó có mặt từ đây cũng là do tiền của Nguyễn Đình Thi tài trợ lúc ban đầu. Tất cả 4 người trên đều có dính dáng, liên lạc hay hoạt động với chế độ cộng sản từ trước. Tờ báo chỉ là nối kết những tổ chức tôn giáo nhà nước như trước đây ở Hànội. Chẳng hạn, ngoài Bắc có tổ chức với cái tên rất dài là: Ủy Ban Liên lạc Toàn quốc những người Việt Nam yêu tổ quốc, yêu hoà bình (UBLLCGTQ) Tờ báo CGDT ở Sài Gòn tọa lạc trên một toà nhà ba tầng gồm 50 nhân viên, trong đó có một vài tu sĩ. Vốn liếng tài trợ tờ báo là những hợp tác xã, cơ sở kinh doanh được nhà nước tài trợ như xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, khách sạn Đại Kết, công ty Tinh Hoa, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề và máy vi tính Bạch Đằng..

Cho đến nay (2016), tờ báo vẫn còn họat động đều đặn. Có lẽ đây là tờ báo duy nhất được sinh ra từ sau giải phóng và tồn tại lâu dài như vậy. Nó không thể chết, vì nếu nó chết thì cái đã làm nên nó chắc hẳn cũng không còn nữa. Vì có tính cách chính thức như tiếng nói của chính quyền nên nhiều người nghi kỵ và dè dặt. Người dân có cái nhạy cảm và dị ứng với cái gì chính thức, cái thuộc công quyền. Trước đây, các tờ Chỉ Đạo, Cách Mạng Quốc Gia cũng nhận được sự rẻ rúng của dư luận quần chúng. Đây là cái bình phong che chắn cho chế độ. Sau này, chính nội bộ của họ cũng tố cáo nhau như trường hợp giữa ông Nguyễn Đình Đầu và ông Trần Bá Cường (Trương Bá Cần viết lộn ngược). Ông Vương Đình Bích thì đã viết thư hạch hỏi ông Phan KhắcTừ về tội lem nhem tiền bạc, về tổ chức, về chuyện một vợ hai con của ông. Tiền bạc vốn tài trợ ngoại quốc khoảng 150 ngàn Mỹ kim. Vốn vay để thêm thu nhập cho tờ CGDT như ở trên đã nhắc tới. Ông Bích hỏi ông Từ tiền lời lãi do xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, đỡ đầu cho công ty Tinh Hoa, vay vốn hai tỉ để lập nhà máy may và trồng 33 mẫu cao su, rồi đầu tư với công ty Singapore, đầu tư khách sạn Đại Kết, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề may và trường dạy vi tính Bạch Đằng là bao nhiêu, tiền đó bây giờ ở đâu. Tất cả đều do ông Từ đừng tên. Làm sao người dân biết được những chuyện làm ăn đó. Thì cũng do chính họ tố giác nhau mà dân mới biết được.

Nhưng chuyện lem nhem của các ông thì có liên quan gì đến chính quyền, miễn là tiếng nói của các ông vẫn theo một điệu nhạc đã sọan sẵn, bài bản được dàn dựng.

Sau này, GM Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội đồng Giám mục (HĐGM) Việt Nam đã trả lời phỏng vấn trên tờ Églises d’Asie là “người Thiên Chúa giáo hết tin tưởng vào Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (UBĐKCG) và tờ báo Công giáo và Dân tộc.” Câu trả lời như thế có thể bị hiểu lầm là trước đây người ta vẫn tin, bây giờ mới hết tin.

Thứ tư mồng 9 tháng 7, 1975, vẫn lại những phụ nữ có chồng đi học tập

Có một nhóm phụ nữ có chồng đi trình diện học tập cải tạo đã tụ tập trước dinh Độc Lập cũ. Họ đòi hỏi cho biết tin tức về chồng con của họ. Bộ đội đã đến giải tán. Có những tin đồn cho biết, có 4 xe nhà binh chở bọn họ bị giết trên đường đi. Chế độ càng bưng bít, tin đồn càng nhiều. Sự lo sợ càng lúc càng gia tăng. Người ta bắt đầu đặt ra nhiều dấu hỏi về số phận những người đi học tập này.

Sau này, vào năm 1979, Việt Trần đã nhắc lại điều ấy trong cuốn sách của ông, “Vietnam: J’ai choisi l’exil”, Paris, Edition du Seuil, 1979.

“Hai chị tôi cũng nằm trong số những người đàn bà bất hạnh trên. Anh rể tôi, một sĩ quan đại uý an ninh quân đội. Một thứ sĩ quan bàn giấy mà suốt đời chỉ là đại uý. Chưa hề bao giờ biết bắn súng. Vậy mà anh đi biền biệt ra Bắc hơn mười năm sau mới trở về. Chị lớn tôi, một nách 7 đứa con, hai đứa lớn nhất còn ngồi ghế đại học, đứa út chập chững vào trung học. Chị nhỏ cũng không thua, 6 đứa. Gia đình chị lớn trước đây sống bương chải nhờ có thêm hiệu hớt tóc ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Cuộc sống đạm bạc qua ngày, chắt chiu và hà tiện để nuôi các con ra người. Chị tôi cùng lắm là loại đàn bà đảm đang, khéo thu vén như nhiều người khác. Nhưng nay chồng đi học tập. Gánh nặng đè trên hai vai các chị. Bỗng chốc hai chị tôi trở thành những người đàn bà phi thường. Một chị buôn bán kem. Một chị xông xáo, hàng gì cũng buôn, buôn đủ thứ. Đã hai lần, hễ cứ buôn bán có tiền là “xuất cảng” quẳng mấy đứa nhỏ ra biển. Hết lớp này đến lớp kia như lên cơn dồng. Hai lớp đã quẳng chúng ra biển đều thoát và không bị hãm hiếp. Nỗi lo, nỗi mừng cứ như sóng dồi. Các chị tôi như mê, như say điên cuồng không còn biết sợ là gì. Tôi sang trước, năn nỉ, lạy van các chị đừng cho các cháu đi nữa. Vẫn đi. Đi là đi. Đi xong tất cả chừng nấy đứa thì chị nào chị nấy như cái khăn ướt vắt khô nước, cạn kiệt. Chị nhỏ tuổi gục xuống như cây chuối bị phạng ngang lưng như mẹ tôi trước đây, chưa kịp đi đoàn tụ. Bên này, tôi tức tưởi khóc lén một mình. Chị lớn vừa sang ít lâu, gục theo không kèn, không trống. Gục xuống vì công việc đã hoàn tất. Mission accomplie.

In memoriam những dòng này cho hai chị tôi. Những người đàn bà bất hạnh trong một đất nước mà trời đất nổi cơn gió bụi, mà nước mắt như mưa sa, mà lòng người độc ác vô tận, mà hận oán như trời đất bao la.

Dù sao thì các anh rể tôi cũng may mắn hơn nhiều người đi học tập khác. Tôi có người bạn, anh Nguyễn Thanh Ty, anh nguyên là giáo sư biệt phái nên phải đi học tập. Mới đây anh có viết một cuốn sách và gửi tặng cho tôi đọc: Trong lao tù, CS, Trại Đá Bàn và A.30. Mấy tháng sau ngày đi học tập, anh đã nhận được thư vợ viết như sau: Nếu những ngày tới, em không còn cách nào kiếm được gạo nuôi con nữa thì mẹ con em sẽ cùng uống thuốc chuột chết cho xong. Em và các con đã khổ quá rồi. Nỗi bất hạnh của anh không dừng ở đó, sau này anh biết vợ anh đã bỏ lại các con cho bà nội để tìm một bến đậu khác. Nào có thể trách ai bây giờ.”

Việt Trần, “Vietnam: J’ai choisi l’exil”, Paris, Edition du Seuil, 1979

Một trích dẫn cuối cùng:

“Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.”

Người Bàu Trai, “Vợ lính thời chinh chiến”, tháng tư 2004
Phụ nữ và trẻ em Bàu Trai co rúm người dưới một con kinh ngập bùn để tránh hỏa lực dữ dội của VC vào ngày 1 tháng 1 năm 1966. Các binh sĩ Dù thuộc Lữ đoàn 173 Không kỵ (hậu cảnh) đã hộ tống những người dân này qua một loạt cuộc chạm súng trong cuộc tấn công của Mỹ vào thành lũy của VC tại Bàu Trai , cách Saigon khoảng 20 Km về phía tây. Photograph: Horst Faas/AP
Phụ nữ và trẻ em Bàu Trai co rúm người dưới một con kinh ngập bùn để tránh hỏa lực dữ dội của VC vào ngày 1 tháng 1 năm 1966. Các binh sĩ Dù thuộc Lữ đoàn 173 Không kỵ (hậu cảnh) đã hộ tống những người dân này qua một loạt cuộc chạm súng trong cuộc tấn công của Mỹ vào thành lũy của VC tại Bàu Trai , cách Saigon khoảng 20 Km về phía tây.
Nguồn: Horst Faas/AP

Qua những câu truyện kể trên, hễ mà một chính quyền hảnh dân, làm dân khổ thì ta sẽ xếp hàng về phía những người cùng thân phận hay đứng về phía kẻ có quyền lực. Sự chọn lựa hẳn đã là rõ.

Một cảnh đời khác đang vẽ ra…

Citroën Sài Gòn sau 1975 cũng đổi đời – Nguồn: https://baomoi.com

Trong khi đó thì theo tin hãng France-presse cho biết, ở Hà Nội nay có nhiều xe Honda từ Sài Gòn chạy trên đường phố. Xe gắn máy dần thế chỗ cho xe đạp. Một nếp sống mới đang thành hình. Người ta còn thấy nhiều loại nước uống sản xuất bởi hãng B.G.I. cũng được bầy bán ở đây. Bát nước chè xanh nay thay thế bằng ly nước xã xị hiệu Con Cọp.

Sài Gòn thì như một thành phố bị chiếm đóng và có nạn hôi của những người thua cuộc để khuân về Hà Nội. Nhiều nhất là salon, tủ lạnh, quạt máy, máy hát, vải vóc, thuốc tây và ngay cả bột giặt. Nghĩa là tất cả những gì ở Hà Nội không có. Những chiếc xe nhà binh chở lính vào thì nay đầy nhóc những món hàng của kẻ thua cuộc để lại. Một cuộc vơ vét thẳng tay và khá trắng trợn.

Hãng giấy Cogido có 8.000 tấn giấy trong kho đã được lệnh chuyển ra Bắc. Tất cả những xe hơi mới của hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco, có 165 xe được tân trang cũng chờ để được chở ra Bắc. Cách mạng bị mang tiếng nhiều về vấn đề này lắm. Những lời mỉa mai, bóng gió không thiếu qua cái câu chẳng thơm tho gì, “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng.”
Hạt gạo miền Nam đã thiếu hụt nay lại phải cắn chia đôi, chia ba cho miền Bắc.

11 tháng 7, 1975, Tướng Trần Văn Trà: Mắt xích cuối cùng của cánh miền Nam

Tướng Trà, tác giả cuốn sách “Kết thúc chiến tranh 30 năm”, bị gọi ra Bắc để trả lời và trình bày về những rối ren, về tình trạng an ninh và nhất là tình trạng tham nhũng hối lộ. Vai trò của ông và mặt trận có dấu hiệu không còn nữa.

Cho đến lúc này, nạn tham nhũng trong thành phần cán bộ lãnh đạo, trong chính quyền bắt đâu lộ dạng. Và kể từ đó đến gần 30 năm, và nay đã hơn 40 năm vẫn không có dấu hiệu gì có sự cải tiến. Đã có bao nhiêu nghị quyết? đã có bao nhiêu lần tuyên bố cương quyết diệt trừ tham nhũng?

Ở một nước Tự do thì người dân sẽ có cảm tưởng chính quyền coi thường dân chúng. Có thể thế được chăng? Có thể kéo dài mãi chăng?

11 tháng 8, 1975, tờ Tin Sáng với nhóm cựu dân biểu đối lập thời VNCH

Tin Sáng, 21/12/1975. Nguồn: OntheNet
Tin Sáng, 21/12/1975. Nguồn: OntheNet

Một tờ báo tư nhân đầu tiên đã được phép xuất bản. Tờ Tin Sáng mà một số người đứng đầu trước đây đều là những dân biểu đối lập trong chính quyền Ngụy. Đó là các ông Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Bình, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Phan Ba, Dương văn Tòng.

Lý Quý Chung tin tưởng rằng với sự có mặt của tờ Tin Sáng cho thấy có sự hợp tác giữa chính quyền mới và những người trí thức chế độ cũ. Ông còn nói thêm, xưa làm báo như thể những người bửa củi, còn bây giờ làm báo như một người thợ nề xây cất.

Theo những người chủ trương tờ báo, họ hãnh diện đây là tờ báo duy nhất không phải Cộng Sản trong lòng một chế độ Cộng Sản. Tờ báo tồn tại được bao lâu? Đó là câu hỏi chưa có câu trả lời. Trong le Nouvel Observateur, mồng 4 tháng 8, 1975, Jean Lacouture viết:

“Ngô Công Đức n’est pas un conformiste. Le revoici à pied d’oeuvre. On verra dans la marge de liberté d’expression qui lui sera laissée un test décisif de L’esprit démocratique du nouveau régime.”

Jean Lacouture, Nouvel Observateur, 4 tháng 8, 1975,

Năm năm sau N. Chomsky trong “Guerre en Asie” viết:

“Cinq années se sont passées. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et ses amis parait toujours. Le test est il positif?”

N. Chomsky, “Guerre en Asie”
Ngô Công Đức (6/3/1975). Nguồn: Bruce McKim / Staff Photographer / The Seattle Times

Câu hỏi vẫn còn đó, câu trả lời thì có rồi.

Sau này, ông Võ Văn Kiệt trong một bài phỏng vấn vào ngày 30 tháng 4 năm 1980 cũng coi Tin Sáng như một biểu tượng hợp tác giữa chính quyền cộng sản và trí thức miền Nam.

Nhưng chẳng bao lâu sau thì tờ Tin Sáng bị đóng cửa, vì ‘‘đã hoàn thành nhiệm vụ’’ (Tin sáng 1975-1980)

Tờ Tin Sáng ăn mừng.

Ông Hồ Ngọc Nhuận có ý tổ chức một bữa ăn “Đoàn Viên” trong nhóm bạn bè của ông, ở địa chỉ số 132, Lê Lai. Không biết ai trong số những người này đã thay chủ bút mời bữa ăn đó. Có thể là Nguyễn Xuân Lập, Trần Thị Huệ, Huỳnh Tấn Mẫm hay Dương Văn Đầy. Chỉ biết là phường khóm không cho. Cuối cùng chỉ vì một bữa ăn mà phải cầu cứu đến ông Tạ Bá Tòng. Ông Tạ Bá Tòng lại xin ở cấp cao hơn nữa. Nhận được giấy phép ở cấp cao hơn nữa rồi mấy người lu bu, tụ tập đầy đủ ở trên lầu. Phường khóm đã vác súng đến hỏi chuyện. Năn nỉ mãi thì cũng được thông cảm, sau khi xin lỗi và hứa lần sau rút kinh nghiệm hơn. Ông chủ tịch phường khóm khi ra về không quên nhắc, “Nên nhớ, thủ tướng cũng phải xin phép, nếu muốn làm gì ở đây…”

Thứ năm 7 tháng 8, 1975, học tập không ngày về

Tù cải tạo đang chơi bóng chuyền (1985). Nguồn: Jim Laurie/NBC
Tù cải tạo đang chơi bóng chuyền (1985). Nguồn: Jim Laurie/NBC

Nay đã hơn 7 tuần rồi, quá cái giới hạn đi học tập một tháng rồi. Chính quyền cho biết nay những người đi học tập có quyền gửi thư về nhà một tháng một lần. Lại một hứa hẹn nữa nhằm xoa dịu đám vợ sĩ quan ở nhà. Chính sách học tập cải tạo là một lãng phí nhân tài, sức lao động sản xuất và nhất là gây hận oán trong bà con, thân nhân người đi học tập. Việc kéo dài thời gian đi học tập một cách không cần thiết làm buồn lòng dân Sài Gòn và tạo ra sự mất tin tưởng vào chế độ. Có ai có đủ thành thật để cho biết họ đã học được gì? và đã cải tạo được như thế nào? Vì vậy mà thành phần những người đi học, dù sau này đã được sang đây vẫn canh cánh bên lòng nỗi hận oán chế độ.

Nhân khi đọc bài này, tôi có người bạn là anh Lê Tấn Lộc, giáo sư Triết, nguyên Trưởng Khu Học Chánh 12 tỉnh miền Đông. Với chức vụ đó, anh phải đi trình diện học tập cải tạo. Hai người bạn tù đã chết. Anh có kể rằng có một phái đoàn của Hội Ân xá Quốc tế tới thăm trại học tập. Họ đã lùa các anh tù cải tạo vào trong rừng, chỉ để lại một số người làm cò mồi.

Trong khi đó, trên tờ Tin Sáng, một trí thức tên tuổi có viết rằng: người đi học tập được ăn thịt gà rôti, nghỉ mát và chơi bóng chuyền. Vui và khỏe mạnh. Cũng ông, khi người con trai của ông làm nghĩa vụ sang đánh Campuchia. Ông đã làm một bài thơ ca tụng những người thanh niên lý tưởng đã từ bỏ gia đình ra đi giúp nước. Sau này, một số trí thức, trong đó có ông, đã ký tên trong một danh sách biện hộ cho đường lối của chính quyền trong vấn đề tù cải tạo, vấn đề người di tản, v.v.


CSVN “khoe” tù nhân cải tạo học tập với ký giả ngoại quốc lần đầu tiên, 10 năm sau ngày thắng cuộc, mùa Xuân 1985. Nguồn: Jim Laurie/NBC

Anh Lê Tấn Lộc có quyền bất nhẫn về chuyện đó như kẻ trong cuộc bị phản bội.

Xin nêu danh tánh một số trí thức miền Nam đã đặc biệt đứng tên ủng hộ chế độ mới, ủng hộ chính sách đi học tập cải tạo trong một lá thư gửi ra cho bạn bè người ngoại quốc. Họ không cần thanh minh với 3 triệu người Việt Nam di tản, mà chỉ biện bạch với người ngoại quốc thôi.

Họ là giáo sư Hồ Đắc An, ông Trương Bá Cần, ông Võ Đình Cường, thượng tọa Minh Châu, nghệ sĩ Kim Cương, dân biểu Lý Quý Chung, bác sĩ Trần Văn Du, nhà báo Ngô Công Đức, bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà, nhà văn Vũ Hạnh, giáo sư Trần Vinh Hiển, ông Tôn Thất Dương Kỵ, giáo sư Bùi Thị Lang, luật sư Trần Ngọc Liễng, thẩm phán Trần Thúc Linh, luật sư Nguyễn Long, giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Châu Tâm Luân, ni sư Huỳnh Liên, ông Huỳnh Công Minh, thẩm Phán Triệu Quốc Mạnh, giáo sư Nguyễn Vinh My, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Nguyễn Quang Nhạc, giáo sư Chu phạm Ngọc Sơn, giáo sư Phạm Biểu Tâm, giáo sư Trần Kim Thạch, giáo sư Lê Văn Thới, luật sư Ngô Bá Thành, giáo sư Lý Chánh Trung, ông Phan Khắc Từ, kỹ sư Lâm Văn Vạng, kỹ sư Đinh Xa.

Trong số những người này, đôi khi có người bất đắc dĩ có tên. Họ cũng muối mặt câm lặng, cũng có thể khổ sở lắm. Nhưng phần tôi, cũng bất đắc dĩ phải kể tên họ ra vì trong tay tôi có tên tuổi họ và lá thư trên.

Đây là nội dung mở đầu tóm tắt của lá thư đó

“Nous, intellectuels de l’ancien sud Viet Nam, profondément indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du Việt Nam, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre.’’

Và quan điểm của các trí thức có tên tuổi ở trên trùng hợp với quan điểm của một vài nhà báo, “Ces camps ne sont ni des clubs de vacances ni des Goulag.”. Ý kiến của R. Pic, tháng tư 1976. Jean Lacouture thì viết “Ce n’est pas le Goulag apparemment- pas l’école des Roches non plus.’’ Tháng 5, 1976. Nói tóm một chữ: Chúng không phải những trại tập trung. Cũng không có cái bề ngoài của một trại diệt chủng. Đó là ý kiến của phóng viên đã đến thăm trại Nam Hà và đã gặp cựu đại tá Lê Thanh Hoà, cựu Trung Tướng Huỳnh Văn Cao, cựu nghị sĩ Nguyễn Văn Hàm.

Họ, những người trí thức có tên ở trên đã tự hạ mình để nói gian dối che đậy cho chế độ.

Phần tôi, xin được phép kiệm lời khi nói đến số phận người tù cải tạo. Bởi vì tôi không đủ tư cách, đủ lời để nói về điều ấy. Còn quá nhiều người mà nỗi khổ, nỗi nhục của họ không thể cất ra lời. Chẳng biết văn chương nào có thể chuyển tải những nỗi đau làm người của kẻ thua trận. Tôi cùng lắm chỉ đứng ngoài mà nhìn vào. Chỉ biết rằng khi tôi đọc “Một nửa Việt Nam Cộng Hoà nối dài” của Tạ Chí Đại Trường nhắc đến đoạn:

“Một người đàn bà ngồi trên xe ba bánh trên một đoạn đường đất đỏ, bụi mù. Xe vừa lướt qua thì thấy một đoàn người tù cải tạo đang lếch thếch trên đường về trại. Bà mủi lòng hất bao bố củ sắn xuống và những người tù xấu số đã chạy xô đến tranh dành như một lũ chó đói. Người đàn bà trên xe Lambretta ba bánh thấy cảnh đó bèn vội ôm mặt khóc.”

Tạ Chí Đại Trường, “Một nửa Việt Nam Cộng Hoà nối dài”

Tôi cũng chẳng thể làm gì khác hơn người đàn bà bất hạnh ấy.

Thứ Tư 7 tháng 5, 1975: quân nhân VNCH bị quản thúc tahi một căn cứ ở Đà Nẵng sau ngày Sài Gòn thất thủ. Nguồn: AP
Thứ Tư 7 tháng 5, 1975: quân nhân VNCH bị quản thúc tại một căn cứ ở Đà Nẵng sau ngày Sài Gòn thất thủ. Nguồn: AP

(P1, P2, P3, Còn tiếp P5)

© 2006-2016 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Loạt bài này của tác giả đăng lần đâu tiên vào cuối tháng 4 đầu tháng 5, 2006 trên DCVOnline. DCVOnline biên tập và minh hoạ.

1 Comment on “30 tháng 4 – Ði tìm thời gian đánh mất (p4)

  1. TỔNG LUẬN
    VỀ LỊCH SỬ

    Lịch sử là toàn bộ những gì đã xảy ra trong đời sống
    thực tế. Toàn bộ những gì đã xảy ra đó đều thuộc về quá khứ không thể còn thay
    đổi được bất kỳ điều gì nữa. Nó chỉ để lại như một kỷ niệm, một dữ liệu, một
    tài liệu tham khảo cho những ai mới đến, những thế hệ về sau. Bởi vậy bản thân
    của lịch sử trong những giai đoạn nào đó có thể không trung thực, nhưng sử liệu
    mà nó để lại thì hoàn toàn khác, phải tuyệt đối trung thực, đó là ý nghĩa của
    lịch sử đích thực, của người viết hay chép lại lịch sử một cách đích thực. Như
    thế cũng có nghĩa mọi sự bẻ cong lịch sử do các lợi ích hay ý đồ nhất thời nào
    đó trong giai đoạn nào đó đều là tội lỗi, thậm chí là tội ác đối với con người
    và nhân loại.

    Nhưng lịch sử nói cho cùng là một hệ thống phát triển
    của cả thế giới loài người. Mọi đất nước đều không thoát ra khỏi được nó, và
    không ai có thể tách rời ra khỏi được nó, từ cổ chí kim cũng thế. Có nghĩa lịch
    sử có mặt khách quan và mặt chủ quan của nó. Mặt khách quan là mặt tự có, vượt
    lên toàn bộ mọi cá nhân cụ thể. Mặt chủ quan là mặt riêng tư, mặt đặc thù của
    từng cá nhân cụ thể nhìn vào nó, cảm nhận nó, lôi cuốn bởi nó, nhận thức về nó,
    hay kể cả tham gia vào nó.

    Như nước ta thời quân chủ phong kiến là giai đoạn lịch
    sử đã tồn tại và phát triển cả nhiều ngàn năm cũng y hệt như mọi quốc gia khác
    trên toàn thế giới sau khi từ giai đoạn bộ lạc và tính cát cứ riêng lẻ đi lên.
    Thời nhà Nguyễn nước ta là thời đỉnh cao nhất của sự phát triển đó. Tất nhiên
    lịch sử là sự diễn tiến của các triều đại, mà kéo theo trong đó là mọi khía
    cạnh chính trị, quân sự, kinh tế xã hội, văn hóa, ngoại giao, khoa học kỹ thuật
    v.v…

    Trong ý nghĩa như thế, khi nền văn minh văn hóa châu Âu
    phát triển đến cao điểm của nó trong thế kỷ 19, yêu cầu kinh tế và khoa học kỹ
    thuật đi lên mạnh, sự cần thiết của việc tìm tài nguyên, thuộc địa là điều
    không thể tránh. Và tương quan lực lượng đó tất nhiên phải có một bên khống chế
    và một bên bị khống chế. Đó là ý nghĩa tại sao thực dân Pháp đã sang chinh
    phục, đánh thắng nhà Nguyễn và kết cục trong 80 năm nước ta phải trở thành xứ
    thuộc địa của Pháp. Từ đó cũng thấy yêu cầu để thoát ly ra khỏi một tình trạng
    lịch sử phải là đường đi đúng, không thể là đường đi sai. Dân tộc ta loay hoay
    chống thực dân Pháp suốt 80 năm mà không thành công là như thế.

    Nhưng lịch sử không thể giữ nguyên hoài một mực mà phải
    tự nó phát triển đi lên và biến động bằng nhiều cách thức khác nhau. Cuộc Thế
    chiến thứ nhất nổ ra ở châu Âu 1917-1918, rồi cuộc Thế chiến thứ hai nổ ra trên
    toàn thế giới 1939-1945 đã cho thấy điều đó. Mục đích của nó là yêu cầu trật tự
    thế giới cần phải được sắp xếp lại. Dân tộc Việt Nam cũng được thủ lợi nhờ Thế
    chiến thứ hai kết thúc, Nhật trao lại quyền tự chủ cho nước ta sau khi họ đã
    hất cẳng được thực dân Pháp non hai năm trước đó. Nhưng cái bất ngờ của Việt
    Nam là sau khi thoát ra khỏi chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật, lại rơi vào
    hướng phong trào cách mạng cộng sản quốc tế khi đó đang là điểm nhấn của toàn
    thế giới.

    Học thuyết Mác cũng là học thuyết từ phương Tây (Đức),
    và phong trào cộng sản quốc tế cũng là phong trào xuất phát từ phương Tây (Nga)
    được du nhập vào nước ta theo kiểu chân ướt chân ráo hoàn toàn bất ngờ, mới lạ,
    mà thực chất ngay từ đầu cũng chẳng ai biết nó một cách sâu xa là gì cả. Đó
    chẳng qua nó là một phong trào được lan truyền ra trong thực tế, nói nhất thời
    cũng không đúng, vì nó kéo dài suốt bảy mươi năm trên thế giới cho tới khi cái
    nôi của nó là Liên Xô và Đông Đức đã hoàn toàn sụp đổ và tan rã. Thế nhưng
    trong bốn nước cộng sản ngày nay vẫn tồn tại trên thế giới là Trung Quốc, Việt
    Nam, Triều Tiên và Cuba, thì Trung Quốc và Việt Nam là điển hình nhất, vì nó là
    một dãi liên kết và bài bản của nó đều có cùng chung một nền tảng gần như nhau.

    Vậy thì rõ ràng điều gì xảy ra trong thế giới loài
    người ban đầu cũng khởi phát từ một khởi điểm cá lẻ hay khiêm tốn nào đó. Bởi
    không có Mác xuất hiện cũng không có lý thuyết cộng sản, bởi không có Lênin
    xuất hiện cũng không thể có phong trào cộng sản quốc tế lan ra trên toàn thế
    giới. Nhưng từ những khởi điểm đó, về sau là dọc dài mọi nhân vật và mọi sự
    kiện khác nhau từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, từ Tây sang Đông mà trong
    đó như Mao Trạch Động, Kim Nhật Thành, Fidel Castro, hay như cả Pônpot Yêng
    Sari về sau luôn chỉ là những móc xích sự kiện vốn được câu móc vào đó ngay từ
    đầu mà không gì khác.

    Nói khác đi, lịch sử trong thế giới con người là một
    chuỗi hệ thống. Có khi các hệ thống cùng lồng vào nhau, và mọi nhân vật hay
    người ngợm trong chuỗi hệ thống đó cũng móc xích vào nhau. Cuối cùng chỉ có cái
    đầu và cái cuối có khi là độc lập nhất, còn dọc dài những trung gian chỉ là
    những khoen khớp tự giác hay không tự giác, vô hình chung đều là những công cụ,
    những phương tiện được tính toán và sử dụng như thế nào đó trong hệ thống mà
    thôi. Đó là chưa nói có khi hệ thống trong nước còn bị hệ thống quốc tế chi
    phối, hay như trong nước lúc đó thì ông Nguyễn Hữu Thọ trong miền Nam cũng chỉ
    nhằm trong hệ thống do chính ông Lê Duẩn ở miền Bắc khi đó chi phối vậy thôi.

    Cho nên những nhóm khuynh tả trong Nam khi đó mà tiêu
    biểu như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Tạ Bá Tòng,
    Ngô Bá Thành v.v… cũng chỉ là những thứ điếu đóm trong dọc dài hệ thống không
    hơn không kém. Đó là những loại trí thức kiểu nửa mùa, ba rọi, kiểu hạng bét mà
    tự vỗ ngực xưng tên nhằm chủ đích đầu cơ chính trị nhưng cứ tưởng mình là tiên
    phong, tiến bộ. Bởi trí thức đúng nghĩa thì phải sáng suốt hơn quần chúng, cao
    hơn quần chúng một cái đầu, nhằm dẫn dắt quần chúng, soi sang quần chúng, đàng
    này họ thảy đều là những kẻ mị dân, những kẻ ngụy dân, thế thì còn ra thể thống
    gì nữa. Tất cả mọi điều này sau này lịch sử sẽ ghi nhận, tức lịch sử muôn đời
    khách quan của một dân tộc, một đất nước, không phải lịch sử nhất thời chỉ của
    một giai đoạn điên đảo hay tao loạn nào đó.

    Bởi vậy lịch sử thực chất của thế giới loài người cũng
    chỉ là một. Ngày nay một thế giới của công nghệ điện toán và của toàn cầu hóa ở
    trong thế giới thị trường cạnh tranh lành mạnh trong chủ yếu để phát triển, là
    điểm phát triển cao nhất từ xưa đến nay của nhân loại. Có điều hai yếu tố đó
    lại cũng phát sinh từ Mỹ, cũng là một nước phương Tây. Rõ ràng khuynh khuynh
    hướng tự nhiên khách quan trong thế giới phương Tây đã chiến thắng khuynh hướng
    không tự nhiên, giả tạo của thế giới phương Tây trước kia là học thuyết Mác và
    phong trào cộng sản quốc tế từ Nga. Các nước phương Đông hay toàn thế giới,
    thật ra đều đi sau các nước phương Tây chỉ là điều hiển nhiên nhất. Chiến tranh
    lạnh một thời cũng là sản phẩm từ phương Tây để tự giải quyết chính nó. Nhưng
    nước Đức thống nhất không tốn một công sức hay viên đạn nào. Điều đó hoàn toàn
    ngược lại với Việt Nam suốt ba mươi năm trường chinh mới cuối cùng thống nhất.
    Và sự thống nhất của hai nơi cũng hoàn toàn khác nhau.

    Thật ra cốt lõi của Mác là chủ trương một thế giới đại
    đồng, nhưng phương cách và mọi tính toán đều sai. Mác đặt cơ sở trên cách mạng
    vô sản, chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp và kinh tế tập thể phi thị
    trường. Tất cả điều đó đều không đúng với thực tế khách quan tâm lý cá nhân và
    xã hội của con người, cuối cùng thuyết Mác hoàn toàn thất bại và phá sản là như
    thế. Chính ngày xưa cũng chủ trương thế giới đại đồng, nhưng ông nhấn mạnh hòa
    nhi bất đồng. Tức nhưng loại sống hòa hợp nhau nhưng vẫn phải có những cái
    riêng của mình. Trong khi Mác chủ trương ngược lại, tưởng tượng ra giai cấp vô
    sản trên toàn thế giới, tất cả mọi người đều vô sản giống nhau, đều sống hệt
    như nhau dưới sự cầm quyền của một cá nhân thế lực mạnh nhất hay tập thể thế
    lực mạnh nhất và nó tự nhân danh đó là giai cấp vo sản và chuyên chính giai cấp
    vô sản.

    Như vậy rõ ràng Mác chủ trương theo kiểu đồng nhi bất
    hòa, mọi người đều bị đánh đồng lẫn nhau nhưng không ai đồng ý với nhau cả. Bởi
    vậy sự kèn cựa giữa Liên Xô và Trung Quốc, thậm chí cả chiến tranh giữa họ
    trước kia, hay sau này giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như giữa Việt Nam và
    Khmer đỏ trước đây là điều mà lịch sử không thể không ghi nhận. Đó chính là
    kinh nghiệm đau xót của con người dưới thời Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch
    Đông, dưới thời Ăng ca của Khmer đỏ, dưới thời của trại tập trung cải tạo nơi
    vùng băng giá Siberia mà Stalin đã thực hành, và trong thời học tập tập trung
    cũng như cải tạo công thương nghiệp ở Việt Nam được đem ra áp dụng ở Miền Nam
    sau khi đất nước được thống nhất. Đó chính là điều mà những tên trí thức khuynh
    tả ba trợn ở Miền Nam trước đây hoàn toàn không biết hay giả đò không biết.

    Cho nên tóm lại, lịch sử loài người nói chung dù cho bị
    tác động với những hoàn cảnh cụ thể nào đó, bị tác động bởi những cá nhân, nhóm
    cá nhân hay những học thuyết nào đó, mọi sự kiện hay vấn đề xảy ra chỉ đều theo
    một trong hai hướng là đúng hay sai, khách quan hay chủ quan, tốt hay xấu,
    trung thực hay hoàn toàn giả tạo. Mọi cái gì xảy ra theo vế trước thì không cần
    bất kỳ sự tuyên truyền giả tạo, dụ hoặc nào vẫn cứ mang lại kết quả chung. Trái
    lại, mọi cái gì xảy ra theo vế sau, nó đều phải được hỗ trợ bởi sự cưỡng chế
    độc đoán, bởi bạo lực mù quáng, bởi những sự tuyên truyền thêu dệt, giả tạo và
    nhiều khi rất xa sự thật. Ngày nay thế giới đi đến toàn cầu hóa một cách êm
    thắm, cả cộng đồng châu Âu hay cộng đồng Asean cũng thế, không cần bất kỳ sự
    tuyên truyền giả dối nào, không cần bất kỳ chiến tranh hay cưỡng chế nào, không
    cần bất kỳ những sự hi sinh vô lý và tai hại nào.

    Thế nhưng trước kia đám trí thức khuynh tả Miền Nam phần
    nhiều chụp mũ, xuyên tạc tất cả mọi điều đó bằng bao danh từ giả trá, khái niệm
    ngụy tạo cùng sự chưởi bới khác nhau. Sự khác nhau giữa tính dốt nát, càn đùa,
    cảm tính, mù quáng, nhu nhược, tay sai, đối ngược lại với ý nghĩa của sự trung
    thực, khách quan, độc lập, sáng suốt, kiên cường, lý tính, nhất là với cả đầu
    óc khoa học nghiêm túc, nhân văn, hay đạo đức theo cách hoàn toàn truyền thống,
    đúng nghĩa, đều cũng chỉ là như vậy. Cho nên khi dòng lịch sử trôi qua rồi
    người ta mới sáng suốt ra hết mọi điều. Nên công và tội đối với loài người, với
    lịch sử, với mỗi cá nhân, không phải người ta đã từng làm điều gì, làm ra sao,
    nhưng chính là những điều làm đó có khách quan không, có đúng không, có chân
    chính, chân thực và đạo đức hay không.

    THƯỢNG NGÀN

    (06/5/16)