Trăm nghìn nỗi khổ!

Vũ Thế Thành

warendAi vui xin cứ vui. Nhưng còn chút tâm tình này của kẻ buồn, không nói cho thế hệ sau biết những buồn bã sau 75 là như thế đó, lòng dạ nào yên?

Các quán nhậu vỉa hè dọc kênh Nhiêu Lộc dạo này nhiều người hát rong, cũng ampli, loa, micro không dây, nhạc đệm,… Họ chỉ hát toàn nhạc xưa, nhạc sến, với điệu rumba, bolero nghe tưởng như đồng hồ đếm ngược. Lần trước về Sàigòn, tôi đã ngồi quán vỉa hè, nghe những bài ca vỉa hè như thế…Lặng cả người,

“…Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời. Đường phố vắng đêm nao quen một người, mà yêu thương trót trao nhau trọn lời…”(*)

Tôi chợt nhớ những ngày sau tháng tư 75, đám bạn bỗng nhiên làm đám cưới chớp nhoáng, lấy vợ lấy chồng để “đối phó” với thời cuộc, rồi vội vã tìm đường vượt biên. Có đứa vượt qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới. Những người ở lại tưởng họ đã đến bến bờ thiên đường.

Bước lên tàu là ngàn khơi sóng vỗ, không phải là chuyến xe Sàigòn–Đà Lạt. Có khi Hà bá mời xuống chơi, có khi tủi nhục trên đường vượt biển, phần còn lại là may mắn. Mà có may mắn lọt vào xứ người cũng chưa hết. Cô bạn tôi cao chưa quá thước rưỡi, với tay đưa khay bánh vào ngăn, trượt chân, u đầu sứt trán. Quên cả đau, vội vội vàng vàng lượm bánh xếp lại vào khay. Bà xếp Tây mắng, “Xứ này không ăn dơ như thế.”

Lên tàu vượt biển -- 30 tháng 4, 1975. Nguồn: AP Photo/Matt Franjola
Lên tàu vượt biển — 30 tháng 4, 1975. Nguồn: AP Photo/Matt Franjola

Cũng có người đi làm nail, tiền tươi thóc thật, dồn hết cho con ăn học. Hy sinh đời bố, củng cố đời con, hiểu sát nghĩa đen là đây, là mồ hôi trộn nước mắt. Tiền gửi về nhà, người thân trong nước tưởng đâu bên đó kiếm tiền dễ như ăn cơm sườn, xin thêm thứ này thứ nọ. Có biết đâu đó là tiền chắt chiu, có khi là tiền thí mạng, không mua bảo hiểm y tế.

Nhưng cũng có người kiên nhẫn vừa làm vừa học, thành danh nơi xứ người. Nhưng cho dù thế nào nơi xứ người, vẫn còn ít nhiều cơ hội, có chịu nắm hay không mà thôi. Trong nước thì coi như bế tắc. Hồi đó, tôi dạy kèm thêm luyện thi đại học, dạy nhóm 5-7 học sinh. Có em học xuất sắc, bài thi làm không chê vào đâu được. Vậy mà rớt. Em là con “ngụy”, thứ “ngụy” còn trong trại cải tạo, làm sao vào đại học nổi, em rớt ngay từ… bãi gửi xe. Em đến báo tin, thầy trò ngồi uống cà phê vỉa hè, buồn ứa nước mắt. Đất nước này không dung những tiềm năng như em… Số phận đời người chứ đâu phải trò chơi chính trị. Sao lại có thể xây dựng đất nước bởi những con người bằng thiệt học giả? Những năm sau 75, đói khổ và ê chề thấy rõ. Giáo sư, bác sĩ, ông này bà nọ xuống đường ra chợ trời hết, người đạp xích lô, người bơm mực bút bi, bán bún riêu, buôn hàng lạc xon,… Lanh hơn thì buôn hột xoàn đổi đô la,…

Năm 78, tôi gặp một phụ nữ ăn mặc lam lũ, nhưng đẹp, qúy phái, không quá 30, trên chuyến tàu chợ. Chị kéo lê 2 bao than ra gần cửa tàu, ngước mắt nhìn tôi, nói như năn nỉ, “Lát nữa gần đến ga Bình Triệu, anh làm ơn đạp dùm tôi 2 bao than này xuống.” Chị buôn lậu than, đến ga sẽ bị tịch thu. Đôi mắt chị buồn và nhẫn nhục quá, làm tôi nhớ đến đôi mắt của bà mẹ trong một tác phẩm của C.V. Gheorghiu. Cảnh sát bắt bà mẹ vào bót để tra hỏi nơi ẩn nấp của con bà. Gheorghiu đã mô tả đôi mắt của bà cũng buồn và nhẫn nhục như thế.

Có lần đi chơi khuya, tôi gặp Bùi Giáng ở ngã ba Trần Quang Diệu-Trương Minh Giảng, ăn mặc chắp vá màu mè như phường tuồng, cầm cây chổi cùn múa may, chặn đầu xe tôi lại, “Cho trẫm điếu thuốc.” Hoàng thượng đã chiếu cố xin thuốc dân đen, dân nào dám cãi. Tôi rút điếu thuốc và cung kính châm lửa cho hoàng thượng. Ngài rít một hơi rồi phẩy tay, “Cho lui…” Lui rồi, ngoái cổ lại, thấy hoàng thượng tiếp tục múa chổi đi quyền.


Kim Cương chào vĩnh biệt Bùi Giáng. Video Clip: Bùi Tộc Vĩnh Trinh

Bùi Giáng đã có mầm mống bất thường từ trước rồi, sau 75 nặng hơn, lang thang khắp chốn. Cái điên của Bùi Giáng thật hay giả, cũng khó biết. Mất trí như ông vậy mà hay, ý thức buồn vui làm chi cho khổ?

Mà Sài Gòn lúc đó sao lắm người điên thế! Cũng không phải điên, họ có phá phách gì ai đâu. Tôi thường gặp vài ông ăn mặc lịch sự lắm, áo sơ mi trong quần, có ông còn đeo cà vạt, đi đi lại lạiở khu Lê Công Kiều, nơi bán sách cũ. Vừa đi vừa khua tay, lảm nhảm rồi lại gật gù, nào là Marx, Hegel, Mounier, Sartre,…

Người bạn tôi qua được tới bến bờ, vừa làm vừa học, gửi về cho tôi thùng quà chừng 1,5 kg kèm bức thư ngắn: “Gửi mày mấy hộp thuốc tây, bán đi mà lai rai. Còn lọ nhỏ để uống, đừng bán. Thuốc an thần đó.” Tâm thần phải chăng là lối thoát của con người với thực tại quá phũ phàng?

Ngẫm lại, một nhà chính trị tài giỏi là người có thể đưa đất nước tới mục tiêu mà ít đổ máu nhất, chứ đâu cần phải đốt cả dãy Trường Sơn, đánh tới người cuối cùng. Mạng người quá bèo. Bèo thì cũng đành, nhưng hệ lụy cho người còn sống, cha mẹ vợ con họ mới là nỗi đau gặm nhấm cả đời.

Cả đất nước sống bằng khẩu hiệu, “đất nước ta dân chủ gấp vạn lần”,… Nghe riết rồi quen, nghe tai này lọt tai kia cũng quen luôn. Không quen lỡ có ngày phát điên thì sao?

Người lẽ ra phải điên mà không chịu điên, đó là mấy bà. Cầm có tí tẹo tiền, xách giỏ đi chợ, loanh quanh đầu chợ cuối chợ cả tiếng đồng hồ, có khi chẳng mua được thứ gì. Mà có tiền đi chợ là còn may, có người chỉ khoai sắn, rau lang, bí đỏ,…quanh năm. Ăn để sống sót thì thứ gì chẳng nhét vô bụng được. Bột ngọt khi đó là thần thánh.

Đà Lạt. Nguồn:  goroundvietnam
Đà Lạt. Nguồn: goroundvietnam

Mấy ông “tù cải tạo” coi vậy chứ chỉ khổ cái thân, chứ cái đầu chưa đến nỗi. Có biết bên ngoài thế nào đâu mà khổ, mà lo. Vợ một bác sĩ quân y đi thăm nuôi, dúi vào tay chồng ít tiền. Thăm nuôi lần sau, thấy tiền vẫn còn nguyên, ông chồng không dám xài. Bà than, “Tội nghiệp cho cả gia đình tôi ! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù,ở trong nhịn đói vì không nỡ nuốt cái đói khát của vợ con.” Não lòng đến thế là cùng! Nước mắt nuốt ngược thế này, chỉ bị nghẹn mà không phát điên,bà này chắc có căn phần phúc đức.

Nghe nói mấy ông “ngụy cải tạo” định lập ra ngày vinh danh mấy bà vợ. Không đủ đâu mấy ông. Mấy bà này chắc phải phong…Thánh.

Tháng tư năm nay, Sài Gòn nóng khủng khiếp. Sài Gòn không mưa nhưng Đà Lạt mưa. Những ngày cuối tháng tư năm nào Đà Lạt cũng mưa, mưa mù mịt che khuất cả đồi thông ở Couvent des Oiseaux đối diện nhà, nhưng mưa chỉ vào lúc trưa chiều, tối tạnh.

Đà Lạt 8 giờ tối đã như 12 giờ khuya ở Sài Gòn. Tôi vẫn thích đi bộ mỗi khi có chút hơi men thế này. Con đường dốc về nhà như kéo theo mệt mỏi của đời người. Tựa lưng vào cửa nhà, hoa lá trong vườn yên tĩnh như đêm. Dưới ánh đèn đường rọi qua hàng rào, bóng của lá cây ngọc lan chập chờn trên mặt sân. Cuối tháng tư rồi. Người ta sẽ đốt pháo hoa ở Sài Gòn để ăn mừng. Ai vui xin cứ vui. Nhưng còn chút tâm tình này của kẻ buồn, không nói cho thế hệ sau biết những buồn bã sau 75 là như thế đó, lòng dạ nào yên?

Đời trăm nghìn nhánh khổ, nhánh nào cho người, nhánh nào cho mình? Năm 75 là ngã rẽ của đời người. Bạn bè, người thành danh, đứa bầm dập, và cho dù có ở phương trời nào, tây hay ta, nỗi khổ vẫn theo số mệnh mà đến. Giờ đây, đứa nào cũng chạm tay vào buổi hoàng hôn cuộc đời rồi…

Tháng tư, tôi thắp ngọn nến trong lòng. Thoảng trong mùi hương ngọc lan, tôi hát theo, hát thầm bài hát nghe được ở quán rượu

“…Cuộc đời là hư vô, bôn ba chi xứ người, khi mình còn đôi tay…” (**)

Đà Lạt, 28 tháng 4, 2016

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Trăm nghìn nỗi khổ. Vũ Thế Thành. Blog Những thằng già nhớ mẹ. 28/04/2016. DCVOnline minh hoạ.
(*) Trúc Phương, “Nửa đêm ngoài phố”
(**) Lam Phương, “Xin thời gian qua mau”

1 Comment on “Trăm nghìn nỗi khổ!

  1. BÂY GIỜ NĂM MẤY RỒI HỞ EM ?
    Giờ thì 30/4 năm ấy đã trôi qua lâu rồi, 41 năm rồi phải không em nhỉ ? Hầu hết lớp người xưa của hai bên nay cũng không còn nữa. Cũng không còn phân cách hai miền Bắc Nam nữa. Người ta cũng không còn gì để sợ mất nữa, vì mất cũng đã mất tất rồi, và được cũng đã được tất rồi. Bây giờ từ “ngụy” hay “cách mạng” từng một thời bị quy chụp hay gán ép cũng không còn ý nghĩa nữa. Tất cả đều đã qua, đều trở lại xã hội như thời xưa trước 75 tại miền Nam. Có điều có được gần 4 triệu Việt kiều ở nước ngoài, có điều nhiều người ngày nay vẫn nói về chủ nghĩa Mác Lênin như ăn cháo.
    Duy có điều từ trước đến giờ hễ chủ nghĩa Mác Lênin đi tới đâu là người dân bỏ chạy tứ tán, thậm chí chạy vắt giò lên cổ. Đó là điều không ai phủ nhận. Cứ nhìn cảnh di cư vào Nam 1954, cảnh vượt biên bằng mọi loại 1975 thì đều nhận thức được. Đó chỉ là sự thật. Và nếu đó là xã hội lý tưởng cũng như thần thánh, tại sao sau 70 năm Liên Xô và Đông Âu phải sụp đổ và tan rã, tại sao sau đó người ta phải đổi mới mọi thứ, rồi tiếp theo là hội nhập vào kinh tế thị trường toàn cầu như hiện nay, tức tư bản không hề tự đào mồ chôn như Mác tiên liệu, hay chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng trước khi rẫy chết, là đêm trước của vô sản toàn cầu như Lênin đã nói.
    Vậy thì vấn đề người dân đa phần không làm chính trị mà chỉ muốn làm ăn,Chỉ đó là ý nghĩa khách quan của xã hội. Chỉ có thiểu số nào đó thích làm chính trị vì bao nhiêu lý do nào đó, như bắt chước theo người khác, bị bó buộc phải theo người khác, có các lý tưởng ảo tưởng nào đó, hay chỉ vì những quyền lợi thiết thân riêng nào đó. Thế nhưng về phần ngôn ngữ thì thiên hình vạn trạng, chúng như những cái khiên để người ta núp vào đó nhằm hành vi hay tự vệ.
    Dĩ nhiên ngày 30/4 năm đó cũng bao người ra đi vì sợ hãi, nỗi sợ hãi ám ảnh khôn nguôi về mọi loại, cũng có người ra đi vì nhận thức, có người thuần túy phiêu lưu hay bắt chước. Nhưng cũng có người cương quyết ở lại vì niềm yêu quê hương hay vì tình cảm, trách nhiệm gia đình nào đó. Nói chung kết quả của nó chỉ do định mệnh riêng của mỗi người cùng là định mệnh của cả xã hội, đất nước và lịch sử nói chung.
    Cũng có những người tỉnh, người say, hay lẫn cả người điên trong đó. Nhưng rồi mọi sự đều qua hết. Nó như một cơn nước xoáy, một cơn gió lốc, rồi cũng lặng yên, rồi cũng thôi. Có điều mọi cái gì đã mất đi thì không còn tìm thấy lại được. Mọi cái gì từng là mơ mộng thì đều chỉ là ảo tưởng, mọi cái gì dối gạt thì cũng không biến thành sự thật, và mọi cái gì sự thật thì cũng đã được phơi bày. Nghĩa là lịch sử đích thực thì không thể làm giả, xã hội đích thực thì không thể làm giả.
    Cho nên khi toàn bộ vở kịch đã được đóng xong, vở kịch cũng không còn nữa. Dù nó vẫn còn dư âm, dư vang, hay hình ảnh nào đó, nhưng rồi tất cả đều cũng sẽ qua, chỉ trả lại cho sân khấu trống rỗng, hội trường trống rỗng, vì màn đã hạ và mọi khán giả đều đã lui về. Họ lui về để trở lại cuộc sống bình thường như vẫn diến ra trong cuộc đời thường xuyên, bất tận. Kẻ cả mọi kịch sĩ trong nội dung cả vở kịch thì cũng vậy, họ cũng lại trở về đời sống bình lặng như tất cả mọi người. Chẳng có ai còn đem theo chút xiêm y hay vật phẩm hóa trang nào đã từng sử dụng tới. Có điều lạ lùng là khi xem vở kich diễn, người ta chỉ được phép tán thưởng mà không ai được quyển phản đối hay la ó, đó cũng là điều thú vị nhất.
    Ôi cái kịch bản trường giang đó chỉ do người nghệ sĩ tác giả kịch bản viết ra là ông Các Mác. Và người nghệ sĩ dàn dựng đầu tiên kịch bản vĩ đại dài hơi đó cũng không ai ngoài ông sáu (VI) Lênin. Nó đã từng thu hút quần chúng công nông đồng đảo từ khi khởi diễn cho tới lúc hạ màn, tức từ thời kỳ Xô Viết đang lên cho tới khi quay trở về nước Nga truyền thống. Tất nhiên không phải ai cũng thích vở diến hay kịch nghệ, nhưng nhiều khi bị cưỡng chế, bắt buộc phải coi. Đó chính là vở kịch đời được lồng ghép vào trong vở kịch sân khấu. Nên có những lớp diễn viên gạo cội đầu tiên, mà cũng có những lớp diễn viên đóng thế tiếp theo, những lớp diễn viên thứ cấp về sau, song tất cả đều làm tròn vở diễn một cách bó buộc hoặc chỉ ụ ợ theo, đó mới là điều đáng cười nhất. Đặc biệt vở kịch có nhiều tiếng súng đạn nổ và tiếng la khóc, đó là điều ly kỳ nhất.
    NGÀN PHƯƠNG
    (13/5/16)