Di sản văn học miền Nam (p2)

Nguyễn Văn Lục

sodoChính vì nghĩ như thế mà chúng ta cần nhắc lại một nền văn học đã bị xóa sổ chẳng khác gì một mảnh đất đã bị cào bằng để xây đô thị mới bất kể những di tích cũ, đền đài cũ.

Cuộc di cư và bứng gốc văn học

(Tiếp theo p1)


Đến bến bờ tự do: Đồng bào di cư từ miền Bắc rời tàu USS Bayfield ở cảng Saigon, 1954

Việc của tôi ở đây là phác họa một cách vắn tắt 20 năm văn học miền Nam mà chỉ với 20 năm đó, nó đã hoàn thành một nhiệm vụ văn học mà không gì có thể so sánh được. Khi tôi nói 20 năm thay vì 21 thì không có mục đích nói cho tròn số mà vì muốn nhấn mạnh đến ngày chính thức thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Chính vì nghĩ như thế mà chúng ta cần nhắc lại một nền văn học đã bị xóa sổ chẳng khác gì một mảnh đất đã bị cào bằng để xây đô thị mới bất kể những di tích cũ, đền đài cũ.

Trong cuộc di cư 1954, yếu tố chính là đi tìm tự do, một yếu tố chính trị, không muốn sống chung với người cộng sản.

Nhưng một kết quả không ai ngờ tới là cuộc di cư ấy còn là một cuộc di cư chữ nghĩa, một dòng chảy văn học từ Bắc vào Nam, hòa nhập vào dòng văn học địa phương.

Sức mạnh văn học của miền Nam so với miền Bắc mạnh một phần vì yếu tố này, đa dạng vì nó, tinh hoa cũng nhờ nó.

Biết bao nhiêu tinh hoa đất Bắc, như một hiện tượng xuất não, tự bứng rễ, đã có mặt ở miền đất hứa miền Nam.

Tuy nhiên, tôi có một khẳng định là những người làm văn học từ miền Bắc vào miền Nam, đã một cách nào đó, trên cuộc hành trình đi tìm tự do đã bỏ rơi, tự nguyện cắt rời, hay một chối từ trong môi trường mới, hai trào lưu văn học mà chính họ có bổn phận là kẻ kế thừa. Đó là dòng văn học thời tiền chiến và dòng văn học của Tự Lực Văn Đoàn từ những năm 1930. Sự phân biệt này thật ra không thể dựa trên thời gian mà dựa trên nhóm. Vì thế, trong Tự Lực Văn Đoàn cũng có một số nhà thơ tiền chiến cộng tác như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu.

Sự đứt đoạn với tiền chiến khi vào Nam kể như dứt khoát.

Nhiều giới trẻ như sinh viên ít biến đến các nhà văn tiền chiến, vì không có người giới thiệu. Trừ trường hợp Vũ Trọng Phụng, vì ly do thương mại, sách của ông được in lại.

Tự Lực Văn Đoàn may mắn hơn, vì có Nhất Linh, từ Đà Lạt xuống núi cho tái bản các sách vở cuả Tự Lực Văn Đoàn. Cái may mắn thứ hai là Tự Lực Văn Đoàn được đưa vào giảng dạy trong chương trình học của các lớp đệ nhị trung học.

Vì thế, ít ai còn biết đến Nguyên Hồng, mấy người am hiểu Nam Cao, càng xa lạ với Trần Tiêu (em ruột Khái Hưng với tiểu thuyết Con Trâu, Chồng Con). Tờ Tân Văn, số 10, 2008, có cho trích đăng một truyện ngắn của Trần Tiêu, nhan đề Thứ nhì chuột rúc.

Người ta biết lõm bõm về Vũ Trọng Phụng với Số Đỏ, Giông Tố, Làm Đĩ, Cạm bẫy người vì tính cách châm biếm của nó và tính cách thương mại nữa.

Theo Bùi Xuân Bào, hiểu một cách sâu xa hơn, Vũ Trọng Phụng phô bày một sự phá sản của chủ nghĩa cá nhân (La faillite de l’individualisme) châm biếm cay độc như Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan, Sống Chết Mặc Bay của Phạm Duy Tốn.

Nhưng xem ra trái cựa, miền Nam lại tỏ ra nồng ấm với thi ca của Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận Thế Lữ, Chế Lan Viên. Một lý do là thơ dễ cảm lòng người và một số bài thơ của các tác giả trên đẫ được phổ nhạc.

Đến dòng văn học Tự Lực Văn Đoàn thì do sự có mặt của Nhất Linh ở miền Nam, giúp vực dậy trong nhất thời của một thời đã qua. Tuy nhiên, dù nó được đưa vào giảng dậy trong chương trình trung học, nó đã mau chóng bị rơi vào quên lãng theo như một nhận xét của Võ Phiến:

“Tuy nhiên, hầu hết những gì viết về ông đều chỉ chú trọng đến cái thành tích văn học tiền chiến của ông mà thôi: Nhất Linh sáng chói là cái ông Nhất Linh của Đoạn Tuyệt, của Tự Lực Văn Đoàn, của Phong Hóa, Ngày Nay… Như thế sau đóm là một thời tàn dư, không mấy quan trọng.”

Ở một chỗ khác, Võ Phiến nhận xét thêm:

“Ây vậy mà trong khi lắm người khác khen nhau là là cùng tiến vượt bực tới hàng ngũ tiền phong thì Nhất Linh lại bị chê là là không còn hợp thời, là đã thuộc về hôm qua, họa hoằn mới nghe được tiếng ‘chấp nhận’ độ lượng của giới hôm nay.”

(Trích Văn Học miền Nam, truyện 2, 1243-1244)

Thực tế là ngoài những người như Duy Lam, Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến, một chút Doãn Quốc Sĩ còn nhắc nhở người đọc đến Tự Lực Văn Đoàn.

Phần lớn các nhà văn ở miền Nam còn lại như nhóm Sáng Tạo, những người viết trên Bách Khoa, Hiện Đại, Văn Học, Thái Độ, Trình Bầy, Hành Trình, Đất Nước, Khởi Hành thì ít có nhà văn nào chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn về cách viết cũng như đề tài, mẫu nhân vật truyện, v.v.

Hình từ trái: Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Nhất Linh, Tú Mỡ và Xuân Diệu. Nguồn: OntheNet
Hình từ trái: Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Nhất Linh, Tú Mỡ và Xuân Diệu. Nguồn: OntheNet

Tự Lực Văn Đoàn tiêu biểu cho một giai đoạn tranh chấp xã hội giữa cũ và mới mới, bằng tiểu thuyết luân đề. Giai đọan xã hội ấy đã qua thì mọi chuyện cũng đã thay đổi. Nó phục vụ cho những nhu cầu cải tiến xã hội là cái nhất thời thì theo đúng quy luật khách quan nó không có lý do tồn tại lâu được

Và văn học vì thế cũng đòi hỏi một sự đổi mới, cho một nhu cầu mới.

Tóm tắt thì Tự Lực Văn Đoàn đã có một thời với hào quang chói lọi như thế trong văn học sử. Thời của Tự Lực Văn Đoàn đã tàn lụi, đã hết.

Riêng tôi nay không thể có cảm hứng để đọc lại Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, ngay cả Hồn Bướm Mơ Tiên nữa. Cái giá trị để lại là một số hiếm hoi truyện ngắn của Thạch Lam và truyện ngăn viết chung giũa Nhất Linh và Khái Hưng như truyện Anh phải sống. Nhưng ngược lại tôi vẫn cảm thấy gần gũi, xúc động mỗi khi đọc lại Nguyên Hồng trong các truyện ngắn của ông như Hàng cơm đêm, Hai mẹ con, Mợ Du, Hai dòng sữa, Đi, Bố con lão đen, Người mẹ không con, Cái xích cũ, Người con gái.

Truyện làm sao thì cuộc đời ông làm vậy. Bố chết sớm vì lao phổi, mẹ đi làm vú. Phần ông, lang thang đầu đường xó chợ. (Ông viết lại trong Những ngày thơ ấu, Bỉ Vỏ, Sóng gầm, Cơn bệnh đã đến).

Những mảnh đời ấy cũng chính là số mệnh cuộc đời của Nguyên Hồng cũng như Vũ Trọng Phụng vậy.

Nhưng ở Nguyên Hồng, khổ đau giữ nguyên hình hài của nó. Còn ở Vũ Trọng Phụng, nó biến thành những tiếng cười. Theo Bùi Xuân Bào, trong Le roman Vietnamien contemporain, tiếng cười ấy báo động một sự phá sản của chủ nghĩa cá nhân (La Faillite de l’individualisme) tiêu biểu qua những nhân vật Tạ Đình Hách, Xuân Tóc Đỏ.

Có người bảo Peter Zinoman so sánh Vũ Trọng Phụng với George Orwell, hay một Balzac Việt Nam nhưng theo Nguyễn Thị Diêu (“American Historical Review”, 02/01/2015, trang 214) thì trong Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vũ Trọng Phụng, Peter Zinoman tin rằng có sự đồng hoá văn học tri thức của Vũ Trọng Phụng với những tác phẩm tiếng Pháp, đặc biệt là của trường phái hiện đại hiện thực như các tác phẩm của Émile Zola, André Gide. Nguồn gốc nghèo khó của ông là một lý do khiến ông đã không thể vào ngồi cùng bàn với giới “tinh hoa” trong xã hội thuộc địa thời đó. Suốt cuộc đời sống ngắn ngủi của Vũ Trọng Phụng. Những nhân tố này tạo thành nét văn chương của Vũ Trọng Phụng: ông viết về thực trạng xã hội từ góc nhìn thực tế và cặn kẽ của những người thấp cổ bé miệng theo kiểu của Émile Zola. (Phóng sự Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây.)

Zinoman phân tích văn chương Vũ Trong Phụng qua lăng kính chính trị xã hội và coi ông là một “bỉnh bút cảm thức đối với chủ nghĩa tư bản thuộc địa”

Bìa Tạp chí Tao Đàn số đặc biệt tưởng niệm Vũ Trọng Phụng (1939)
Bìa Tạp chí Tao Đàn số đặc biệt tưởng niệm Vũ Trọng Phụng (1939)

Tác phẩm giá trị là ở mức độ thời gian dài hay ngắn của nó. Không phải ngẫu nhiên mà học giả Maurice M. Huard và Nguyễn Trần Huân đã giới thiệu Vũ Trọng Phụng trong Introduction à la littérature Vietnamienne (G-P Maisonneuve et Larose, Paris, 1969), Bùi Xuân Bào, trong luận án tiến sĩ Quốc gia tại Paris, Le roman Vietnamien contemporain dành riêng viết về VTP, từ trang 199-216; sách do Tủ sach Nhân Văn Xã Hôi in. Thêm vào đó, tác phẩm Số Đỏ đã được Peter Zinoman và Nguyễn Nguyệt Cầm  dịch ra tiếng Anh dưới nhan đề Dumb Luck. Ông cũng còn viết một cuốn chuyên khảo về Vũ Trọng Phụng nhan đề Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vũ Trọng Phụng., University of California Press, November 2013

Điều đó càng cho thấy sự đánh phá tập thể của Thế Lữ, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Tú Mỡ của nhóm TLVĐ trên tờ Phong Hóa và Ngày Nay là quá bất công và mang tính bè phái.

Vậy mà trong tập Kỷ Yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, in ấn rất trang nhã, đẹp, tốn tiền, tờ Người Việt và người phụ trách là Phạm Phú Minh đã thiếu khách quan, không hề nhắc tới việc TLVĐ và tờ Phong Hóa và Ngày Nay đã diễu cợt, đánh phá tất cả các nhà văn ngoài nhóm, các tờ báo khác, không trừ một tờ nào.

Xin trích dẫn một lời phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, người đọc cũng phải bắt ngượng:

“Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm lớn nhất, hay quan trọng nhất trong ‘nền văn học hiện đại’ hay trong giai đoạn 1930-1945 mà trong suốt cả lịch sử kéo dài hơn một ngàn năm của văn học Việt Nam nói chung.”

(Trích trong phần đề tựa bìa lưng của tập Kỷ Yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn).

Đây quả thật xứng đáng là một tác phẩm trong việc “bôi nhọ vẽ hề”, Chữ mà Vũ Trong Phụng thường dùng

Đến Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng riêng ra một cõi, không giống bất cư một ai, một đấng tài hoa, nếu bỏ đi những gì ông viết thời kháng chiến như Sông Đà chẳng hạn.

Tôi đã đọc lại Vang Bóng một thời, và đọc lại Chữ người tủ tù Trong đó có cảnh người tử tù, ông Huấn Cao, cho chữ.

Nhưng chỉ riêng Nam Cao thì bút lực của ông đã không thể có mấy ai sánh cùng. Vì đó là sự tuyệt vời của văn học nghệ thuật.

Một dáng đứng vượt thời gian và những biến thiên của những thăng trầm cũng như biến động xã hội. Mà lúc nào nó cũng như thể những đòi hỏi cấp bách và muôn thủa của con người. Các truyện dài của ông có, Truyện người hàng xóm, Sống Mòn. Nhưng đắt giá nhất vẫn là những truyện ngắn của ông như Cái chết của con mực, Lão Hạc, Đôi Mắt.

Và tuyệt bút là truyện Chí Phèo. Chí Phèo thể hiện nhân cách của nhà văn. Chí Phèo làm nổi bật tính cách bi kịch của thân phận Người. Nó là một lời tố cáo vì Con người đã bị từ chối không được làm người.

Nguồn: TTXVN
Nguồn: TTXVN

Chính ở điểm này cho thấy sự khác biệt sâu xa giữa tính nhất thời của Nhất Linh và tính trường cửu của Nam Cao. Nó cũng là dấu chỉ thế nào là nhà văn lớn hay không lớn. Nhà văn lớn khi đề tài lớn. Nhà văn nhỏ khi đề tài nhỏ. Tỉ dụ trong truyện Ngư ông và biển cả, đề tài là sự cao cả, sự bền chí của con người trước thiên nhiên. Truyện Chí Phèo lớn thay vì nói về sự nghèo đói, nó đề cập đến số phận con người bị từ chối không được làm người.

Khi đọc chuyện Chí Phèo của Nam Cao, nó bắt tôi liên tưởng đến cuốn phim La Strada (1954) của đạo diễn Fellini. Làm thế nào từ những thời điểm khác nhau, xã hội khác nhau, nền văn minh khác nhau, họ lại có thể có một điểm đồng quy tuyệt vời như vậy?

Một mặt khác, nó cũng nói lên được cái đẹp của sự khốn nạn, của sự khốn cùng và niềm hy vọng vươn lên của con người như Chí Phèo muốn làm người tử tế.

Ngồi kiểm nghiệm về sinh hoạt văn học Việt Nam, tôi nghĩ khác, thời kỳ tiền chiến không là giai đoạn rực rỡ khó sánh bì của văn học.

Gọi đó là Thời Trục (periode axiale) của nền văn học trước nó và sau nó có lẽ đúng hơn. Nó lên đến đỉnh cao của một chu kỳ văn học sáng chói khó phai mờ. Một bên là Nguyễn Tuân, bên kia là Nam Cao như những ngọn hải đăng văn học. Chung quanh là những vệ tinh Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Văn Cao.

Và còn biết bao nhà văn khác như Nguyễn Vỹ, Bùi Hiển, Lê Văn Trương, Lan Khai, Phạm Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính!

Thiết nghĩ đã đến lúc giới phê bình văn học Việt Nam phải lột bỏ tinh thần cục bộ, ‘gia đình trị văn học’, nhất là áp đặt lý thuyết giáo điều đâm chém, cắt xén, hạ thấp các giá trị văn học như trong trường hợp Nam Cao và Vũ Trọng Phụng.

Chỗ đứng của Nguyễn Tuân đã vững vàng. Chỗ đứng của Nam Cao còn chênh vênh lắm. Trả về cho Nam Cao chỗ đứng xưng đáng của ông là một sự công bằng và phải đạo.

Bên lề văn học miền Nam ở giai đoạn đầu, có một số nhà văn của chế độ XHCN lại đi vào miền Nam bằng cửa ngõ chính trị và được nổi tiếng, quý mến và trân trọng như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Thụy An. Họ càng bị hút máu rút gân thì miền Nam lại càng rộng tay đón họ. Chỉ trừ một vài người tự thân là nhân tài như Trần Đức Thảo, Văn Cao.

Trên đây là mấy dòng ghi nhận, đánh giá sít sao bối cảnh hình thành văn học miền Nam.

(Còn tiếp)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh họa.

1 Comment on “Di sản văn học miền Nam (p2)

  1. MỘT THỜI RỒI QUA

    Giờ thì Mác đúng hay sai
    Đưa ra câu hỏi mấy ai trả lời
    Những anh hạt đậu củ khoai
    Biết gì là Mác chỉ cần ăn thôi

    Những anh trí thức kiểu tồi
    Bảo sao hay vậy cuộc đời ra chi
    Hay Trần Đức Thảo lâm li
    Đầu voi đuôi chuột kể gì cho cam

    Một thời cách mạng rộn ràng
    Nổ ầm thế giới xóm làng đều mê
    Tới khi cải cách ê chề
    Dựng lên đấu tố mọi bề tan hoang

    Rồi thì rời bỏ thôn làng
    Ào ào một thuở kéo tràn vào Nam
    Có chăng kẻ địch cài vào
    Hay là bỏ phiếu lẽ nào bằng chân

    Suy đi nghĩ lại vạn lần
    Rõ ràng thuyết Mác mười phần đều sai
    Chẳng qua nhờ cách độc tài
    Làm người câm miệng có ai ưa nào

    Liên Xô phải đổ cái ào
    Bao năm gò ép cũng nhào vậy thôi
    Đấu tranh giai cấp một thời
    Toàn là giả dối ngôn từ vu vơ

    Chẳng qua do Mác ỡm ờ
    Đưa ra học thuyết mù mờ ai ham
    Toàn trò ngụy biện đỏ lòm
    Lấy đâu khoa học mà làm nhân văn

    Khắp nơi nói cuội nói nhăng
    Trên toàn thế giới dễ hằng xưa nay
    Văn chương văn nghệ cùi đày
    Bề ngoài diêm dúa trong toàn vong nô

    Quả là nhân loại ô hô
    Đạp bằng tất cả tội đồ là đây
    Triệu người câm miệng bao ngày
    Nghĩ xem Các Mác tội này chẳng sai

    Tơ mơ lại nghĩ trổ tài
    Cứu nguy nhân loại thành đào mồ chôn
    Trên trăm triệu mạng đâu còn
    Dương gian bao nỗi oán than bao ngày

    Bây giờ đổi mới thật tài
    Cái đuôi vẫn giữ lai rai quả là
    Chừng nào mới được sáng ra
    Hay là giả tối để mà yên tâm

    Ai hay lý thuyết cù lần
    Bởi vì nếu tốt đã không tồi tàn
    Hỏi xem nếu quả đàng hoàng
    Lấy gì sụp đổ tan hoang vậy cà

    Nên thôi chẳng nghĩ gần xa
    Mọi điều dương thế chẳng qua con người
    Cái tham cái ác ở đời
    Cộng thêm cái dốt thì trời cũng kinh

    Lỗi vì anh Mác linh tinh
    Cuộc đời đảo lộn tưởng mình thần tiên
    Gạt nhau cùng khắp mọi miền
    Còn chi trong sáng thì thiêng nỗi gì

    Khiến đời thảy thật lâm li
    Toàn đều xuống cấp lấy gì mà ham
    Nhân văn vật hóa rõ ràng
    Tội này ông Mác quả càng rõ thêm

    Chủ trương duy vật vô thần
    Con người thành ngợm thì mong nỗi gì
    Thông minh như Mác ai bì
    Thông minh kiểu đó khác gì thong manh

    THƠ NGÀN
    (18/7/16)