Tổng kết 20 năm Văn học miền Bắc (Kết)

Huỳnh Ái Tông

nvgp1Thời gian sẽ đi qua, xóa tan mọi nổi oan khuất, đày đọa con người, nhưng lịch sử sẽ ghi lại trong Hai mươi năm Văn học miền Bắc có tư trào Nhân văn – Giai Phẩm xảy ra một thời gian ngắn ngủi, nhưng kéo dài cho những con người đã tạo dựng nên nó và trong Văn học sử Việt Nam.

Luật CCRĐ được Quốc Hội nước VNDCCH thông qua ngày 4-12-1953
Luật CCRĐ được Quốc Hội nước VNDCCH thông qua ngày 4-12-1953. Nguồn: OntheNet

Ðêm 11 rạng ngay 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châụ Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống tỉnh Thanh Hóa đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục:

“Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta”

Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty công an Nghệ An, hô thật to những khẩu hiệu: Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân, Lương giáo quyết tâm chống Cộng sản khát máu, Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt,… Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Cộng sản quốc tế.

Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này.

Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và Cộng sản. Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20,000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống Cộng sản. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi: Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc. Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội Cộng sản đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này.

Sách giáo khoa đảng CSVN dùng để nhồi sọ học sinh cấp một trong thời CCRĐ. Nguồn: OntheNet
Sách giáo khoa đảng CSVN dùng để nhồi sọ học sinh cấp một trong thời CCRĐ. Nguồn: OntheNet

Không bắt được ai, Cộng sản đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân.” Cộng sản bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không bằng lòng. Cộng sản đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

3) Thẳng tay đàn áp tư trào Nhân văn – Giai Phẩm.

Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông (1893-1976) phát động chiến dịch “chống phái hữu”. Nhiều nhà văn bị phê phán như Trần Xí Hà, Đặng Thác, nữ văn sĩ Đinh Linh, người được Giải thưởng văn học Stalin, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc và bị bắt. Cũng trong thời gian ấy, nhân chuyến thăm Liên Xô, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh. Khi ông trở về, đã cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm đấu tranh “chống phái hữu”. Tờ Nhân Dân xuất hiện nhiều bài viết “chống phái hữu” ký tên Trần Lực, đó cũng là bút danh của Hồ Chí Minh. Những sự kiện quốc tế kể trên, nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam đã có ảnh hưởng quyết định trong việc thanh trừng nhóm người thuộc tư trào Nhân văn – Giai Phẩm, để tránh những hậu quả to lớn có thể xảy ra. Việc thanh trừng do Tố Hữu trách nhiệm thi hành:

Mao và Hồ ttại Bắc Kinh, tháng 12 1957. Nguồn: www.idcpc.org.cn
Mao và Hồ ttại Bắc Kinh, tháng 12 1957. Nguồn: www.idcpc.org.cn

Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác Văn nghệ. Cuối tháng Giêng năm 1958, Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ Nhất được tổ chức tại ấp Thái Hà với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự. Từ 3-3 đến 14-4-1958, cũng tại ấp Thái Hà, diễn ra Lớp học đấu tranh tư tưởng lần Hai với 304 cán bộ văn hoá.

Theo Đại tá Công an, đặc trách A25 Thái Kế Toại cho biết:

“Hai lớp học này đã dùng thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, vu cáo, bịa đặt tội lỗi cho những thành viên nhóm Nhân văn Giai Phẩm. Kết quả là không cần điều tra người ta đã có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để quyết định bắt họ, kỷ luật họ.”

Gần cuối ngày họp, 10-4-1958, công an Hà Nội bắt giam Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An và Trần Thiếu Bảo. Ngày 4-6-1958, trước Hội nghị Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Tố Hữu, người chủ trì chiến dịch ấp Thái Hà đã “tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân văn Giai Phẩm”. Bài “tổng kết” của Tố Hữu được ví như một “cáo trạng”, như một “nhát gươm chính thức kết liễu số phận Nhân văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao phủ”.

Ngày 4-6-1958, Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội, hoàn tất “Trận chiến đấu chống bọn phá hoại Nhân văn Giai Phẩm” với bài tổng kết của Tố Hữu tuyên bố đã dẹp xong Nhân văn – Giai Phẩm nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án “bọn Nhân văn – Giai Phẩm và các Hội trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam thi hành biện pháp kỷ luật.

Số văn nghệ sỹ, gọi là tham gia Nhân văn – Giai Phẩm tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, khoảng 170 người. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người.

Người nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn thì đi cải tạo lao động trong vòng từ ba đến sáu tháng tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã. Một số văn nghệ sỹ phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực…

Ngày 19-1-1960, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã xử “bọn gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành”, đã kết án phạt tù:

– Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra.
– Minh Đức: 10 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra.
– Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân sau khi ra.
– Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân sau khi ra.

Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. (Ảnh tư liệu : DR)
Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.
(Ảnh tư liệu : DR)

Tại một phòng biệt giam của nhà lao Hỏa Lò Hà Nội, Thụy An đã dùng đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng: “Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái chế độ này nữa.” Chính nhà văn Đặng Chí Bình đọc được dòng chữ này, trong phòng ông đã bị biệt giam.

Đầu năm 1961, Phùng Cung bị bắt, do: Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn, chống đối, phản động. Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.

Theo Nguyên Ngọc:

“Sau một đêm, Nguyên Hồng vứt hết chức tước, tem phiếu, đưa gia đình về định cư ở vùng Yên Thế. Ông nói:

– Tao không chơi được với chúng mày nữa.”

Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê Thanh Hoá. Từ đó, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim đi thồ đá, người vợ hiền của ông vừa cày hai sào ruộng vừa xay bột làm bánh. Ba người con trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ ba giờ sáng, kéo ba chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách hai cây số bán rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ bảy cây số đi học. Vì lý lịch cha mẹ mà một người con của Hữu Loan thi đạt điểm du học nước ngoài vẫn không được đi, những người con khác của ông cũng không ai được vào đại học.

Phùng Quán trong 30 năm treo bút, đã sống với biệt danh: “Cá trộm, rượu chịu, văn chui”, Tiến sĩ văn chương, luật khoa Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Đức Thảo, học giả Đào Duy Anh những nhà giáo bị “mất dạy”, sống đời cùng khổ, nhưng họ đã nêu tấm gương sáng chói cho hậu thế về sự nghiệp đấu tranh cho tự do dân chủ.

Nhân Văn Gia Phẩm. Nguồn: OntheNet
Nhân Văn Gia Phẩm. Nguồn: OntheNet

4) Ngăn chận tự do tư tưởng.

Ngày 9-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về chế độ báo chí nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân và ngăn cấm những kẻ lợi dụng báo chí làm hại đến công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà.

Thực chất đó là bức chắn, vững chải nhất để bảo vệ chế độ Cộng sản ở miền Bắc, nên từ đó trở về sau, không còn những tờ báo do tư nhân đứng tên làm chủ, báo chí tư nhân trở nên một từ xa lạ đối với người miền Bắc. Cũng từ đó, những nhà văn nhà báo muốn hành nghề phải đi học từ những trại sáng tác hay các trường lớp, nói đến việc học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, học tập chánh trị là chánh yếu, triết học Karl Marx (1818-1883) và của Vladimir Lenin (1870-1924), được tập trung gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tem  Tư bản luận. Nguồn: OntheNet
Tem Tư bản luận. Nguồn: OntheNet

Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết, một hệ thống lý luận và phương pháp luận chặt chẽ được cấu thành từ ba bộ phận: Triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.

– Triết học Mác-Lênin (bao gồm cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.

– Kinh tế chính trị Mác-Lênin: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư (m) của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và người lao động dưới chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản dùng mọi thủ đoạn để áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm giàu cho chúng. Đây chính là nguồn gốc, nguyên nhân cơ bản dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đồng thời, chỉ ra những tiền đề và quy luật kinh tế chủ yếu để đưa tới chỗ diệt vong của chủ nghĩa tư bản.

– Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Việc xã hội hoá lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.

quote-the-sole-property-of-matter-with-whose-recognition-philosophical-materialism-is-bound-up-is-the-vladimir-lenin-246662Giai cấp có sứ mệnh lịch sử thực hiện sự chuyển biến cách mạng đó là giai cấp công nhân, Lênin chỉ rõ:

“Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.”

Bởi vì:

“Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp.”

Nữ thần Dân chủ trong cuộc biểu tình ở Thiên An Môn 1989

Ngày nay, người ta đã thấy rõ một số sai lầm cơ bản trong chủ nghĩa Mác-Lênin, thực tiễn là các nước Cộng sản ở Âu Châu tan rã bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Romania. Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Cộng sản của mình bằng bạo lực. Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 đã không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc.

Sinh viên học sinh tập trung ở Quảng trường Thiên An Môn, ngày 28 tháng năm năm 1989 sau một tấm bảng ghi “Chiến thắng mãi mãi thuộc về chúng ta”. Nguồn: OntheNet
Sinh viên học sinh tập trung ở Quảng trường Thiên An Môn, ngày 28 tháng năm năm 1989 sau một tấm bảng ghi “Chiến thắng mãi mãi thuộc về chúng ta”. Nguồn: OntheNet

Tuy nhiên, hình ảnh mạnh mẽ của các sự thách thức dũng cảm trong những cuộc biểu tình đó đã giúp gây ra các sự kiện ở những phần khác của thế giới. Trong số các cuộc cách mạng chống Cộng nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, như là cửa ngõ tượng trưng để thống nhất nước Đức vào năm 1990.

Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố độc lập của khỏi Liên Xô: Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina và Uzbekistan. Cộng sản đã bị bỏ rơi tại Albania và Nam Tư [Yugoslavia]từ năm 1990 đến 1992, chia thành năm nước kế tục: Slovenia, Croatia, Cộng hòa Macedonia, Bosnia và Herzegovina, và Cộng hòa Liên bang Nam Tư (gồm Serbia, Montenegro và Kosovo). Tác động này cũng được cảm thấy ở hàng chục quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Chế độ Cộng sản đã bị bỏ rơi ở các nước như Campuchia, Ethiopia, Mông Cổ và Nam Yemen. Sự sụp đổ của Cộng sản ngay tại chiếc nôi Cộng sản tại Liên Xô năm 1991 đã dẫn đến sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh.

5) Thực hiện Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc

Sau khi tư trào Nhân văn – Giai Phẩm được dập tắt, những người lãnh đạo Văn nghệ miền Bắc chủ trương thực hiện triệt để Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Người ta xác định cơ sở triết học của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ sở đó Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là miêu tả hiện thực và xây dựng một thế giới xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, cụ thể hơn Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là miêu tả cái hiện thực phải là xã hội chủ nghĩa.

Tưởng cũng nên nhắc lại lời Văn Cao đã nói với Trường Chinh, trước khi Tố Hữu ra tay đập nát bọn Nhân văn – Giai Phẩm:

“Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!”

Tôi nhớ trong khi sưu tầm tài liệu để viết bộ sách này, có một nhà văn trong số những nhà văn ở Tập IV đã phát biểu một câu rất có ý nghĩa: “Nhà văn ca tụng một chế độ, khi chế độ ấy tàn, sự nghiệp văn chương của nhà văn ấy cũng tiêu vong.”

Văn Cao không phải là nhà tiên tri, nhưng ông tiên đoán được viễn cảnh của nền văn nghệ miền Bắc thứ văn nghệ có đảng tính do đảng lãnh đạo là thứ văn nghệ phục vụ chánh trị chẳng khác nào con ngựa kéo xe, đôi mắt bị che cứ phía trước mà chạy.

Từ sau tư trào Nhân văn – Giai Phẩm cho đến 30-4-1975, người ta vẫn không thấy có nhà văn nào có được tác phẩm văn chương làm nên tên tuổi để lại mai sau, có thể người ta sáng tác vì miếng cơm manh áo, vì để bảo toàn sự an nguy cho cá nhân và gia đình, bởi cái gương của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần…

Bóp nghẹt tự do tư tưởng, tự do sáng tác cũng là bóp nghẹt cách tân thơ, bóp nghẹt sáng tạo chủ nghĩa văn học trong khi những nhà thơ như Đặng Đình Hưng, Lê Đạt đang mang bầu nhiệt huyết cách tân thơ của họ, còn văn thì Phùng Cung, Phùng Quán bị biệt giam, cải tạo ở các nông trường.

Tưởng nên đọc lại một đoạn văn của Thiên Sơn trong bài Minh Giang – một đời văn tinh khiết, để chia sẻ mọi nổi đắng cay của một đời người, chọn nghiệp nghề văn:

“Hồi đầu đổi mới, các nhà nhà văn một thời bị cấm đoán được tháo khoán, được khuyến khích viết. Một buổi tối, ông buồn buồn nói với tôi: “Khi còn trẻ, còn nhiều nhiệt huyết thì người ta làm cho lụi tàn mọi cảm xúc. Người ta đấu tố, đe nẹt, bóp nghẹt. Bây giờ người ta bảo viết thì đã già, cảm xúc không còn như trước nữa”. Thế rồi, ông đã mượn chuyện Kim – Kiều để kín đáo thể hiện tâm sự của mình:

“Cụ chọn Thúy kiều làm quốc sắc
Mười lăm năm ngọc nát vàng tan
Còn gì để tái hồi Kim Trọng
Mà nửa đêm lại hỏi ngón đàn?”

(Nhớ Nguyễn Du)
[…] Hà Nội đầu tháng 8 năm 2012.”

Thời gian sẽ đi qua, xóa tan mọi nổi oan khuất, đày đọa con người, nhưng lịch sử sẽ ghi lại trong Hai mươi năm Văn học miền Bắc có tư trào Nhân văn – Giai Phẩm xảy ra một thời gian ngắn ngủi, nhưng kéo dài cho những con người đã tạo dựng nên nó và trong Văn học sử Việt Nam.

 

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Huỳnh Ái Tông, “Văn Học Miền Bắc (1954-1975)”, Tập V, trang 709-732. DCVOnline minh hoạ.

Tài liệu tham khảo:

– Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu Nghệ An 1956. Web: nuvuongcongly.net
– Biến cố năm 1956 ở Ba Lan và Hungary. Web: hist.hnue.edu.vn

Bạn đọc có thể tìm đọc tác gỉa Huỳnh Ái Tông ở trang http://www.vietnamvanhien.net/HuynhAiTong.html

1 Comment on “Tổng kết 20 năm Văn học miền Bắc (Kết)

  1. Bài tổng kết văn học này bàn nhiều đến những biến cố lịch sử, trong cũng như ngoài nước mà người viết nghĩ là có tác dụng và ảnh hưởng đến sinh hoạt văn học miền Bắc. Theo tôi nghĩ, miền Bắc bấy giờ như một cù lao bị vây bọc bởi bức màn sắt, màn tre, màn vô minh… Làm sao những người làm văn học nghệ thuật bấy giờ biết được những cuộc nổi dậy hay những biến động bên ngoài, những cuộc hộp hành của các lảnh tụ… Những vết xích của chiến xa trên đường phố Tiệp Khắc… Điều này chứng tỏ là sau 1975, dân miền Bắc vẫn tưởng là dân miền Nam không có chén bát mà ăn… Cái mẫu số chung của nhóm Nhân Văn Giai phẩm là văn chương phục vụ cho con người, vì con người, chứ không phải vì đường lối hay chủ trương của đảng…. Chúng ta không hề thấy một bài viết nào hay một sáng tác nào ncủa văn nghệ sĩ miền Bắc thời Nhân Văn Giai phẩm có nội dung như bài thơ của Thanh Tâm Tuyền: “Hãy cho anh khóc bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest”. Chúng ta chỉ thấy sự tháo bỏ sợi dây thừng dây xích, để tiếng nói của con người được cất lên, và quyền làm người được được tôn trọng…

    Riêng về thời hậu Nhân Văn giai phẩm, người viết thiếu hai tác giả, mà tôi nghĩ là rất đáng để nhắc nhở. Người thứ nhất là Phù Thăng với tiểu thuyết Phá Vây, và người thứ hai là Hà Minh Tuân với tiểu thuyết Vào Đời. Cả hai tiểu thuyết này được xuất bản năm 1962. Phù Thăng chỉ vì thêm vào “đòi lính quá nhọc nhằn” trong lần tái bản, bị kết án. Và Hà Minh Tuân, thì sự lên án càng dữ dội gấp trăm ngàn lần sự kết án dành cho Phá Vây. Lý do đây là cuốn tiểu thuyết viết lại những tội ác trong chính sách Cải Cách Ruột Đất cũng như vạch lên sự thật về xã hội chủ nghĩa mà có lẽ trong văn học miền Bắc chưa có một tác phẩm nào công khai đề cập. Xin nhớ rằng tác phẩm xuất bản năm 1962. Để rồi cả hai bĩ về vườn, tác phẩm bị cấm xuất bản…
    Qua sự tìm tòi của cá nhân tôi, không phải nhà nước dễ thở vào na9m 1962 để hai tác phẩm kia được ra đời, mà vì cái áo mũ của họ. Phù THăng là lính trinh sát thời chống Pháp, những truyện của ông đều nói lên cuộc chiến đấu oai hùng của lính “bộ đội cụ Hồ”…. Còn Hà Minh Tưa6n là một chính ủy, được Đảng tin cậy bốc giữ chức Giám đốc nhà xuất Bản Văn Học. Cứ ngỡ rẳng, khi xữ dụng viên chính ủy này, Đảng sẽ không còn bận tâm Một Nhân văn Giai phẩm thứ hai xãy ra, nhưng Đảng lầm to. Thời mà Hoàng Minh Tuân giữ chức vụ giám đốc nhà xuất bản Văn học là thời sinh hoạt văn học nghệt thuật miền Ba91c được mùa nhất trong lịch sử văn học miền Bắc. Trong bài viết của Lại Nguyên Ân về vụ “tai nạn” Vào đời của Hà Minh Tuân (xin đọc trên NET) có trích đoạn văn của Mai Ngữ viết về thời nhà văn Hà Minh Tuân làm giám đốc nhà xuất bản Văn Học:
    “Có thể nói thời kỳ cực thịnh của nhà xuất bản Văn học gắn liền với thời kỳ cực thịnh của tình hình văn học sau Nhân Văn…”

    Chúng tôi đã sưu tầm về thời kỳ mà nhà văn Mai Ngữ cho là cực thịnh này.
    Đây là những tác phẩm được xuất bản ở miền Bắc vào năm 1962, được lưu trữ tại thư viện đại học Cornell (Nhà xuất bản Văn Học với 18 đầu sách, Foreign Languages Pub. House với 3, Văn Hóa với 2, Quân đội Nhân dân với 1, Phụ Nữ với 1, Thanh Niên với 1).

    Hà Minh Tuân đã “chơi” một cú rất ngoạn mục. Dám lừa đảng. Và đảng xem như bị hố nặng khi chọn HMT giữ chức giám đốc một nhà xuất bản danh tiếng là nhà xuất bản Văn Học. Ông đã mang văn học miền Bắc lên cực thịnh và cũng nhờ ông, chúng ta mới có một tác phẩm có lẽ là duy nhất vẽ lên bức tranh đen tối của miền Bắc trong thời xây dựng Xã hội chủ nghĩa trong thời hậu Nhân Văn.