Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (p6)

Nguyễn Văn Lục

Chưa bao giờ người Việt Nam biết học để kết đoàn. Sự chia rẽ là mầm mống của sụ bị lệ thuộc làm suy yếu tiềm lực dân tộc. Nhìn trong nước hiện nay cũng như ở hải ngoại, chúng ta đều thấy có chung mẫu số: sự chia rẽ và phân hóa.

Tìm hiểu con người Bảo Đại qua cuốn Hồi ký của ông

(Tiếp theo p1, p2, p3, p4p5)

Bước đường lưu vong của Bảo Đại

Gọi là Bước đường lưu vong có thể chỉ là một thuật ngữ chính trị của cá nhân của người viết bài này. Thực tế, tùy theo góc độ mà người ta có thể gọi một tên gọi khác nhau. Nghiêm Kế Tổ gọi là “Bôn tẩu Trung Hoa”. Bảo Đại dùng một chữ khá mơ hồ để gọi việc này, “Intermède en Chine”. Sát nghĩa có thể dịch là một thời gian gián đoạn ở bên Tàu.

Nhưng gián đoạn với cái gì? Cái gì trước nó và sau nó? Thế thời gian nằm lì bên Pháp phải gọi là gì? Chữ dùng của Bảo Đại như thế thật không rõ nghĩa và vụng về. Chuyến đi ấy chính thức được gọi là đi du lịch.

Nhưng căn cứ trên tình hình lúc bấy giờ, tôi gọi là bước đường lưu vong của Bảo Đại. Việc Bảo Đại, cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh quyết định sang Trùng Khánh cùng với một phái đoàn do Nghiêm Kế Tổ cầm đầu là một quyết định chưa được làm sáng tỏ về phía Hồ Chí Minh. Nhưng lại rất có thể là một quyết định khôn ngoan của cá nhân Bảo Đại. Phải chăng đây là một cơ hội thuận tiện để Bảo Đại thoát thân một cách chính thức?

Câu trả lời có thể hiểu được một phần nằm trong câu truyện mà Bảo Đại thuật lại trong sách như một tình cờ có ý nghĩa. Trong sách Bảo Đại kể khi ông vừa ra khỏi nhà, thì gặp một ông tướng Tầu hàng xóm chận ông lại, hỏi đột ngột:

“Ngài không có ý định sang Tầu một chuyến sao? Thật là đáng tiếc đấy, ngài phải lợi dụng dịp này sang thăm viếng nước chúng tôi. Rồi ông tướng Tầu, nửa nghiêm chỉnh, nửa đùa nói thêm: Đối với tất cả bọn người điên rồ này (ám chỉ Việt Minh), người ta sẽ không biết chuyện gì sẽ xảy ra.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 152)

Sau đó, Bảo Đại nghĩ rằng đây không phải là câu chuyện tình cờ. Rất có thể, đây là một lời mời gián tiếp của của tướng Tưởng Giới Thạch.

Phần khác, việc quyết định rời Việt Nam có sự góp ý của Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam và Trần Trọng Kim. Cả ba đều khuyên Bảo Đại rời Việt Nam với tư cách đi du lịch.

Tại sao Hồ Chí Minh lại gửi phái đoàn đi cầu viện Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh để xin viện trợ võ khí chống Pháp trong lúc này? Bởi vì cũng cùng ngày hôm ấy, quân Pháp đã đổ bộ lên Hải Phòng và đã có sự chạm súng gây nhiều thương vong.

Người Pháp thừa hiểu rằng sự hiện diện của quân đội Pháp tại Bắc Kỳ chỉ dễ dàng được thực hiện nếu Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch nhường bước, rút lui như trường hợp người Anh ở Nam Kỳ.

(Tưởng Giới Thạch đã quyết định dời đô về Trùng Khánh từ năm 1938 vì những lợi ích chiến lược như nó có đường xe hỏa thông thương Hải Phòng-Vân Nam, đường xe hơi thông qua ngã Miến Điện và đường máy bay qua ngã Ân Độ).

Thế nên, cả hai bên đã đạt được những thỏa thuận từ ngày 28-2-1946, (nghĩa là trước ngày Bảo Đại rời Hà Nội ngày 16 tháng 3-1946), theo đó Pháp sẽ thay thế Trung Quốc tại Bắc Kỳ trong vai trò giải giới và hồi hương quân Nhật cũng như việc duy trì, an ninh tại Đông Dương. Việc này sẽ được tiến hành từ đầu tháng 3-1946 với một số nhượng bộ về phía Pháp như sau:

  • Pháp sẽ trả lại tất cả các tô giới đã chiếm được của Trung Quốc tại các thành phố như Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu và Quảng Châu.
  • Cho phép Trung Quốc xử dụng cảng Hải Phòng, miễn thuế cũng như đường hỏa xa giữa Côn Minh-Hải Phòng( Phía bên Trung Quốc) được trao trả lại cho Trung Quốc.

Sự nhượng bộ này về phía Pháp không gây thiệt hại gì vì trước sau Pháp cũng phải trả lại các tô giới đã chiếm được của Trung Hoa. Các nước đồng minh khác cũng lần lượt trao trả lại cho Trung Hoa. Nhưng cái lợi chính và trước mắt của nước Pháp là tái lập lại chủ quyền của nước Pháp trên toàn Đông Dương mà không muốn nhượng bộ bất kỳ phe phái nào ở Việt Nam. Đây là một quyết tâm rõ rệt của người Pháp sau thế chiến II.

Cái lợi của người Pháp là thỏa thuận được với Trung Hoa, họ có thể trở lại Đông Dương một cách hợp pháp và danh chính ngôn thuận.

Cái lợi của Tường Giới Thạch trong dịp này cũng hiển nhiên là lớn lắm. Do quân đội Nhật rút đi, không tốn một viên đạn mà Tưởng Giới Thạch giải giới được quân đội Nhật tại các vùng lãnh thổ rộng lớn miền Nam Trung Hoa như Nam Ninh, Liễu Châu. Do quyết định của Hội nghị Postdam Trung Quốc giữ vai trò giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Nhân dịp này, Tưởng Giới Thạch quyết dịnh cử Lư Hán đến Bắc Việt ngày 15-8-1945.

Nhân dịp này, Tưởng Giới Thạch công bố chính thức lập trường của Trung Quốc vào ngay 24-8: Việc quân Trung Quốc chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16 là quyết định chung của các nước đồng minh. Trung Quốc không có một tham vọng lãnh thổ nào với Việt Nam.

Nay Trung Quốc trao trả cho Pháp nhiệm vụ ấy thì nào có mất mát gì.

Tuy nhiên, việc quân đội Lư Hán chậm trễ sang Việt Nam khoảng 10 tuần lễ đã là cơ hội “vàng’ để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp củng cố chính quyền của họ.

Vì thế, khi các lãnh đạo đảng phái lần lượt lũ lượt theo chân quân đội Lư Hán vào Việt Nam thì mọi việc xem ra đã trễ quá rồi. Họ đã đến chậm một bước sau khi để cho Việt Minh nhanh chân chiếm chính quyền.

Việc này, Hồ Chí Minh rõ hơn ai hết là Tưởng Giới Thạch đã đồng ý cho Pháp thay thế quân đội Trung Hoa do chính Sainteny đã thông báo cho Hồ.

Vậy thì việc gửi một phái đoàn sang Trùng Khánh có phải là một công việc hoàn toàn vô ích, ngụy trang mà Hồ Chí Minh vẫn thực hiện? Phải chăng đó là một cách gián tiếp loại bỏ Bảo Đại? Thật khó có câu trả lời dứt khoát vì tài liệu về phía Việt Minh không đủ để cho phép khẳng định một điều gì?

Nhưng trước khi Bảo Đại lên đường, Hồ Chí |Minh đã nói úp mở, nước đôi theo nghĩa ngài cứ đi và cứ ở bên đó:

“Thưa ngài, ngài có thể ra đi với một tinh thần an tâm. Ngài đừng phải lo ngại điều gì, chúng tôi sẽ làm việc vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 153)

Phần Bảo Đại, đây là cơ hội quá tốt cho ông. Người Pháp sẽ hợp tác và chỉ thương lượng với Việt Minh. Còn Việt Minh thì không cần đến ông nữa trong vai trò cố vấn.

Ông Nghiêm Kế Tổ viết về biệc này đã ca ngợi một cách quá ư nịnh nọt cựu hoàng như sau:

“Người ra đi không tùy tùng thân thuộc, cô đơn (Nam Phương Hoàng Hậu và các Hoàng tử, Công Chúa vẫn còn long đong ở miền Trung nước Việt) […] Cựu Hoàng cương quyết ra đi. Người ra đi tìm nguồn sống cho dân tộc!” (Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, nxb Xuân Thu, trang 107)

Việc ra đi này có gợi đến việc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước không?

Cho nên, theo tôi, nếu bảo Đại còn tiếp tục ở lại Hà Nội thì trước sau ông cũng trở thành một thứ con tin giữa sự tranh chấp Việt Minh và Pháp nổ ra ngày 19-12 và mạng sống của ông không bị bên này thì cũng bị bên kia tìm cách sát hại?

Vì thế, đúng như dự đoán, việc sang cầu viện Trùng Khánh của phái đoàn Nghiêm Kế Tổ hoàn toàn thất bại. Theo Nghiêm Kế Tổ: “Cuộc đi không trống kHồng Kèn, khiến chính phủ Tưởng Giới Thạch không hề hay biết.” (Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 108).

Tưởng Giới Thạch không muốn tiếp thì đúng hơn. Sau nhiều tuần chờ đợi, Tưởng Giới Thạch chỉ tiếp Bảo Đại một cách hết sức lịch sự ngoại giao. Nhưng không một lời hứa hẹn gì. Bảo Đại đọc được điều ấy. Tưởng Giới Thạch mới đầu còn không muốn tiếp phái đoàn Nghiêm Kế Tổ, nhưng sau vì lịch sự có tiếp phái đoàn một cách không chính thức mà địa điểm là một ngôi chùa cổ ở ngoài thành phố.

Địa điểm tiếp khách không đúng nghi thức ngoại giao là một cách thức từ chối khéo của Tưởng Giới Thạch.

Nghĩ lại chuyện bước đường lưu vong của Bảo Đại sang Con Minh, rồi đến Trùng Khánh, thay vì là một điều bất hạnh, trở thành cơ may cho Bảo Đại. Daniel Grandclément, một tác giả quen thuộc mà tôi thường trích dẫn đã dành nhiều trang để viết về giai đoạn này của Bảo Đại. Bảo Đại chăm sóc cái bề ngoài của mình, ra sân đánh tennis với Nghiêm Kế Tổ như thể hai cây vợt nhà nghề. Cũng đập, cũng lên lưới như thể không còn là hai kẻ đang lưu vong, mà là những con người đang tranh đua trên sân như ở ngoài thời gian, ngoài lịch sử! Khán giả bất đắc dĩ ở đây là những người lính Trung Hoa dân quốc của Tướng Giới Thạch.

Chỉ có một người khán giả duy nhất không phải khách bàng quan, đứng nhìn từ ban công khách sạn. Một người vóc dáng cao lớn, cằm bạnh, ăn mặc không phải lính, mà quần áo xậm mầu. Ông ta theo dõi hai bóng người chạy qua chạy lại sân quần vợt mà không có một nụ cười. Người đó là Hương, một cán bộ Việt Minh nổi tiếng ngồi tù từ thập niên 1930 trong những cuộc biến động đẫm máu thời đó.

Bảo Đại hình như thể không nghĩ đến chuyện gì khác, ngoài chuyện đánh Tennis, tiệc tùng và gái. Hết Thông Thị rồi đến Mộng Điệp tìm đến ông. Nhưng ông sẽ làm được chuyện gì khác ngoài chuyện đó, vì tất cả đều ngoài tầm tay của ông. Trên danh nghĩa, ông chỉ là người khách đi du lịch, không nắm chức vụ gì trong phái đoàn.

Và điều tôi cho là bất nhẫn nhất, nó lại nằm ở chỗ khác, chỗ của tình nghĩa con người và gia đình, chỗ mà ít ai lưu tâm tới. Tôi muốn nói thẳng là kể từ ngày ông rời Huế ra làm cố vấn, ngoài 5 lá thư chuyển giao cho bà Nam Phương thông báo vắn tắt vài dòng như: ông vẫn khỏe như một thông báo khí tượng trong ngày. Việc ông quyết định lưu vong khỏi Việt Nam, hoàn toàn mù mịt đối với sự lo lắng của người vợ. Trong khi ông có đủ phương tiện liên lạc với các cô nhân tình sang gặp lại ông bên Trùng Khánh, nhất là lúc ở Hồng Kông. Tóm một lời, ông không một chút lo lắng lắng gì đến số phận của vợ con ông còn kẹt ở ngoài Huế.

Khi phái đoàn Nghiêm Kế Tổ về nước, ông chỉ nhắn xuống họ, trong đó có Hà Phú Hương là nếu có gặp, cho ông gửi lời thăm, “Nếu có gặp vợ tôi, nhờ các ông nói giúp tôi vẫn khỏe.” Hà Phú Hương đã giữ lời, ra Huế thăm bà cựu hoàng. Tôi xin trích nguyên văn đoạn văn tiếng Pháp:

“Triste nouvelle. Désormais la jeune femme est vraiment seule. Elle dit ignorer que son mari avait l’intention de poursuivre sa visite “ touristique”, en tout cas, qu’il s’était décidé à quitter le Viet Nam impromptu. Elle est, parait-il au bord des larmes. Cinquante plus tard. Huong en est ému. Est-il possible que l’impératrice n’ait pu être prévenue par son mari?” (Daniel Grandclément, ibid., trang 228)

“Tin buồn. Kể từ nay, bà thực sự lẻ loi một mình. Bà cho biết, không hề biết ý định của chồng bà có chuyến du lịch ngoại quốc. Nhưng dẫu sao, ông đã đột ngột quyết định không trở về. Mắt bà rớm lệ. Năm mươi năm sau, ông Hương vẫn còn xúc động khi nhớ lại chiều hôm đó. Lẽ nào chồng bà đã không báo trước cho bà?”

Ông đã ở lại Trùng Khánh tính ra cũng gần nửa năm trời. Trong thời gian ấy, ông đã làm gì? Một câu hỏi thừa. Chẳng làm gì cả hay là chơi thôi. Đến tháng 9 ông quyết định đi Hồng Kông còn mang theo Lý Lệ Hà.

Nay ông lấy tên giả, tên một người Tàu là Wang Kunney, chẳng phải Bảo Đại mà cũng chẳng còn phải ngài cố văn Vĩnh Thụy nữa. Ông ăn mặc như người Tàu với sơ mi lụa trắng, đeo một cặp kính đen tổ bố. Ông sống hội nhập nhanh chóng lẫn lộn như một người Tàu bình thường. Cũng xử dụng xe buýt, sống cuộc đời với hai mặt: cờ bạc và thể thao, đi tắm biển, chơi golf, chơi tennis. Tối đến la cà các tiệm nhảy như Paramount, một tiệm nhảy lớn nhất và nổi tiếng nhất Hồng Kong.. Nhiều khi sạch túi thì đã có Thông Thị mở hầu bao nhờ tiền kiếm được như một taxi-girl. Vào buổi trưa, ông đến thưởng thức các món ăn hảo hạng tại nhà hàng Parisian Grill, sau đó có thể ông đi bơi lội ở một bãi biển sang trọng ở Hồng Kong, bãi Repulse Bay.

Trong một hoàn cảnh thật sự bi kịch, ông vẫn sống theo cung cách một bậc trưởng giả, kẻ thượng lưu như lúc nghỉ mát ở Sầm Sơn, ở giữa Hà Nội. Không bao giờ ông sống thật sự tư cách một người làm chính trị lưu vong mà đời sống vật chất trở thành mối lo từng ngày.

Vua Việt Nam Bao Đại, tị nạn ở Hong Kong, bắt a tay với chó. January 01, 1948. Jack Birns. Nguồn: www.gettyimages.com

Tiếng tăm của ông bị vẩn đục và một số tờ báo lúc bấy giờ ở Nam Kỳ như tờ Duy Tân đã đưa tin về một phụ nữ người Hoa, tên Trần Nỷ hay với cái tên Jenny Wong, từ Hồng Kông sang Sài Gòn đòi chính thức hóa đứa con trong bụng đã có mang với Bảo Đại. Nhưng tại sao Jenny Wong [Hoàng Tiểu Lan] không đòi trực tiếp Bảo Đại ở Hồng Kông? Hành động đó chỉ là hình thức muốn tố cáo con người Bảo Đại?

Trong khi đó, tại Hà Nội, trong các lần cải tổ chính phủ, người ta cũng lấy làm nực cười, tên tuổi của ông vẫn nằm trong danh sách chính phủ với tước danh: Cố vấn tối cao chính phủ, sau Hồ Chí Minh. Có khi còn được ghi chú thêm: vắng mặt vì lý do xuất ngoại. Tất cả đều mập mờ, úp mở.

Trong thời gian ở Hồng Kông, người Pháp đã tìm cách móc nối lại với Bảo Đại và sau đó, nhiều phái viên Pháp khác tiếp tục liên lạc với Bảo Đại. Và mỗi lần như thế, họ lại tìm cách rót những số tiền cho Bảo Đại chi dùng như trả tiền Hotel, tiền ăn và tiền chơi gái.

Nguồn gốc của những món tiền mà Bảo Đại nhận được thường được giữ kín nên nay không thể biết được nhũwng số tiền ấy là bao nhiêu. Tôi nghĩ đến ông như một thứ con buôn chính trị?

Tất cả đều bắt đầu từ Paris. Tên tuổi những người tiếp xúc với Bảo Đại mỗi ngày mỗi dài. Những Yole, một nhân viên tình báo làm việc cho lãnh sự quán Pháp mỗi tháng đưa 5000 đô la-Hồng Kông cho Bảo Đại. Được biết, số tiền này do quỹ của ông Bollaert cung cấp. Nhiệm vụ của Yole còn là bá cáo cũng như chuyển giao những tin tức mà người Pháp cần gửi. Nhưng công việc chính của ông có thể là mỗi tháng cung cấp đủ tiền cho Bảo Đại như một lá bài dự trữ của người Pháp trong tương lai.

Viên ngọc Rạng Đông trong bộ ngọc của Bảo Ðại. Photo: Ray Chen. Đường kính: 37,97 ~ 37,58 mm — Trọng lượng: 397,52 cts.- Màu: Cam. Giấy chứng nhận: AIGS vào ngày 26 Tháng 12 năm 1996 do Dr. Ken Scarrett. Theo Allain Trương viên ngọc hiện trong tay một người ẩn danh chưa chịu bán với giá 7 triệu USD cho cựu hoàng tử Nam Tư Dmitri Karageorge.

Tuy nhiên, trong hồi ký, Bảo Đại có nhắc đến nhân vật Yole, nhưng lại không nhắc gì đến số tiền 5000 đô la Hồng Kông mà ông nhận được mỗi tháng từ Yole. Ông viết:

“Sau khi Yole trình diện với tôi, ông ta cho biết ông ta sẽ nhận sẽ giúp tôi liên lạc và đến gặp tôi mỗi tháng đem lại nhiều tin tức mới mẻ.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 163)

“Có những số tiền lớn mà do sự tình cờ đã được tiết lộ ra bên ngoài. Như trường hợp quan thuế ở Sài Gòn đã mở một chiếc valise của con gái ông Toàn quyền Bollaert và trong valise có chứa một khoản tiền trị giá 600.000 đồng theo thời giá ngoại tệ. Theo sự giải thích của cô gái, số tiền này được trao cho an ninh để chi trả cho các khoản chi tiêu của Bảo Đại ở Hồng Kông.” (Daniel Grandclément, ibid., trang 279)

Chỉ trong một vài trường hợp được công khai hóa thì nay mọi người mới rõ câu chuyện tiền bạc của ông. Đó là trường hợp viên khâm sứ ở Sơn La, tên Cousseau, ông này rất thông thạo tiếng Việt cũng như văn hóa Việt đã liên lạc thật gần gũi với Bảo Đại. Sau này Cousseau đá tiết lộ cho nhà báo Lucien Bodard như sau:

“Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế, đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ. (…) Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn.. Ông ta hiểu rằng người ta càng gắn với ông bao nhiêu thì lại càng cần đến ông bấy nhiêu.” (Lucien Bodard, la guerre d’Indochine, gồm ba cuốn là: L’enlisement, L’humiliation và l’aventure NFR, Gallimard 1963. Trích lại trong Daniel Grandclément, trang 279 )

Hơn ai hết, Bảo Đại, qua nhận xét của Cousseau, nắm được yếu điểm của người Pháp: Người Pháp cần ông. Chính cái cần này đã giúp Bảo Đại mặc cả đến những số tiền lớn lao cho mỗi dịch vụ. Chúng ta cần nắm rõ điều này để thấy Bảo Đại đặt giá cho nền độc lập Việt Nam mà thực tế ông không thật sự quan tâm cho đủ. Tôi hiểu rõ sâu xa thêm điều này khi tìm hiểu Hiệp Định Élysée được ký kết giũa Pháp và Việt Nam tại vịnh Hạ Long như thế nào.

“Chưa kể, Cousseeau cũng là người khuyên Bảo Đại về các phi vụ làm ăn chuyển tiền. Nhờ chế độ chuyển tiền hay buôn tiền mà Bảo Đại có thể thu được một số lời lớn? Các đồng tiền được cho phép chuyển đi chính thức từ Sai gòn sang đến Pháp, đúng hơn là Paris khi đổi ra đồng Franc thì giá cả của nó được tăng gấp hai lần? Để khuyến khích người Pháp chuyển tiền về chính quốc, một đồng Đông Dương được đổi chính thức là 17 franc. Bảo Đại nhận giúp những người Pháp cứ 8 francs mua được một đồng Đông Dương ở Hồng Koong. Ông gửi tiền Đông Dương đó về Sài gòn và tiền đó quay trở lại Pari s đổi chính thức ra 17 francs.

Được biết, Bảo Đại còn đưa cho Phan văn Giáo 20.000 đô la Hồng Kông, ông này mua thuốc trụ sinh Pénicilline, đóng 15 thùng trở về Sài Gòn… Những thuốc này bán chợ đen đem lại một số tiền là 750.000 đồng. Ai mua những thuốc trụ sinh này? Việt Minh. Những người cộng tác làm ăn này còn có Nguyễn Hữu Thi, giám đốc cơ quan tình báo, đồng thời là cố vấn tài chánh cho Bảo Đại. Thi nắm độc quyền cung cấp và vận tải cho Trung phần. Đồng thời còn buôn bán Kim cương, rượu vang, cả cao su cho Trung Kỳ.” (Daniel Grandclément, ibid., trang 280)

Trong hồi ký của Bảo Đại, ông còn tiết lộ một tin tức mà người viết chưa có điều kiện kiểm chứng đầy đủ về trường hợp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch như sau:

“Vào trung tuần tháng 11, tôi gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, chủ tịch Phong trào thanh niên ở Nam Kỳ dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi Bộ trưởng chính phủ lâm thời từ tháng 8-1945 và bây giờ là giám đốc văn phòng của Hồ Chí Minh. Ông cho biết ông từ Quảng Đông đến theo lệnh của chủ tịch đáng kính Hồ Chí Minh và chuyển giao một thư của Hồ Chủ tịch gửi lời chào trong tình đồng đến bảo Đại và mong Bảo Đại nhận món quà của chủ tịch gửi đến. Sau đó, ông này đã rút trong bị ra một bọc, gói một số không biết bao nhiêu lạng vàng lá của Hồ Chí Minh gửi cho Bảo Đại và với số vàng đó, có thể Bảo Đại sống được hai tháng. Sau lời bày tỏ cám ơn Hồ Chủ Tịch. Bảo Đại đã hỏi ông Phạm Ngọc Thạch chuyến đi của Hồ Chí Minh sang Pháp.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 165)

Không biết phải lặp lại gọi những hoạt động của Bảo Đại là gì? Ông có phải là một thứ con buôn chính trị hay con buôn thời cuộc? Ông nhận công khai nhiều món tiền của người Pháp, nhưng đồng thời cũng không từ chối tiền của Hồ Chí Minh?

Phải cắt nghĩa và giải thích về điều này như thế nào cho thuận lý? Ông chống Pháp hay chống Việt Minh? Ông làm việc cho ai? Có lúc ông tuyên bố, ông sẽ không bao giờ quay trở về Huế để đóng vai trò một ông Vua bù nhìn! Như thế là không còn làm việc cho Pháp? Những kẻ chống Việt Minh, số này rất đông nay nhìn thấy ở Bảo Đại một giải pháp dành lại độc lập một cách ôn hòa và tránh được cảnh chết chóc tàn bạo kiểu Việt Minh. Một giải pháp dễ dãi, một nền độc lập được mua bằng một giá rẻ mà không tốn một giọt máu.

Chỉ mãi đến tháng 9-1947, người ta mới nhận rõ lập trường cứng rắn của Bảo Đại đối với Việt Minh. Người Pháp thở dài nhẹ nhõm. Chưa bao giờ ngôi sao Bảo Đại lên như lúc này, sự kính mến ông còn hơn lúc ông từ chức. Phái đoàn gốc người Huế sang chầu chực ông và khẩn khoản ông trở về lãnh đạo đất nước.

Về phía người Pháp, Bollaert là người cương quyết và tin tưởng nhất yêu cầu Bảo Đại trở về nước cầm quyền. Boolaert sẵn sàng chi tiền và đã chi nhiều tiền và chi nhiều lần. Bảo Đại tuyên bố chỉ về nước khi bảo đảm có một nền độc lập toàn diện.

Cái khó khăn trở ngại duy nhất là người Pháp chỉ muốn trao trả một nửa nền độc lập, một nền độc lập tự do có kiểm soát và giới hạn trong một vài lãnh vực. Nghĩa là một thỏa thuận trong đó một nền độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp trong đó chính quyền Việt Nam có một nền hành chánh riêng, cảnh sát riêng. Tuy nhiên quân đội và ngoại giao thì phải chịu dưới quyền kiểm soát của người Pháp.

Đây là những tiền đề như bước mở đầu cho cho một giải pháp cho Việt Nam mà sau này ta gọi là “ Những thỏa ước của vịnh Hạ Long” được ký kết giữa Pháp và Bảo Đại, đại diện cho quốc gia Việt Nam mà ngay cả chính quyền cộng sản cho đến lúc ấy cũng không bao giờ đạt được rộng rãi như thế về phía người Pháp.

Sau đó, theo Hồi ký của Nghiêm kế Tổ, các người của đảng phái đã gửi người ra liên lạc và tiếp xúc với Bảo Đại tại Trùng Khánh như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bính, Đinh Xuân Quảng, Bùi Tường Chiểu.

Tranh vẽ Bảo Đại ở Hong Kong. Nguồn: AKG Images.
Tranh vẽ Bảo Đại ở Hong Kong. Nguồn:  AKG Images.

Nhưng đến tháng 7 năm 1946, khi Bảo Đại đến Hồng Kông thì đã có một số lãnh tụ Quốc gia lúc đó đã lưu vong đã tiếp xúc với Bảo Đại. (Nghiêm Kế Tổ, Ibid.,trang 109)

Nhưng cũng theo hồi ký Bảo Đại, Bảo Đại đã tiếp kiến các đại diện đảng phái Quốc gia, chạy trốn khỏi Hà Nội từ tháng bảy, khi có cuộc truy lùng, ám sát các người của các đảng phái. Đó là các quý ông Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam của VNQDD, Nguyễn Hải Thần của Đồng Minh Hội. Ba người này bày tỏ lòng trung thành với Bảo Đại:

“Le peuple vietnamien, dans sa grande majorité, attend un geste de Votre Majesté. Dès maintenant, Sire, vous pouvez compter sur nous.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 167)

Vài ngày sau thì đến lượt Trần Trọng Kim và một số người khác. Tất cả đều đến từ Quảng Đông. Trần Trọng Kim khuyên |Bảo Đại nên chuyển đến Nam Kinh trông chờ vào Tưởng Giới Thạch. Bảo Đại từ chối liền và cho biết trong tương lai Trung Hoa Dân Quốc sẽ mất vào tay Mao Trạch Đông.

Trong số những người đến gặp Bảo Đại có mặt Phan Văn Giáo!

Sau đó, cảnh sát Anh ở Hồng kông có đến yêu cầu Bảo Đại chọn một Hotel nhất điịnh, họ sẽ phái hai cảnh sát Hồng Kông đến để lo bảo vệ an ninh cho Bảo Đại. Có tiền rủng rỉnh, Bảo Đại đã chọn một biệt thự sang trọng ở Repulse Bay, ở Victoria.

Từ khi dọn đến đây, theo Bảo Đại, biệt thự trở thành nơi lui tới của rất nhiều loại khách lui tới. Trong số này có bác sĩ Phan Huy Đán, luật sư Đinh Xuân Quảng thuộc đảng Xã Hội. Phía Quốc Dân Đảng có luật sư Trần Văn Tuyên.

Những người thân cận của Bảo Đại có Hoàng thân Vĩnh Cẩn, Phan Văn Giáo và Vĩnh Tường trở thành người nhà ở thường trực.

Nhiều người nổi tiếng khác như bác sĩ Lê văn Hoạch, thuộc nhóm Cao Đài. Phạm Văn Bình, Ngô Đình Diêm, Phạm Công Tắc, giáo chủ ở Tây Ninh, Lê Văn Soái, tướng Hòa Hảo đều lần lượt đến Hồng Kong.

Có thể nói hầu như không thiếu một khuôn mặt chính trị nào mà không có mặt. Kết quả các cuộc gặp gỡ này ra sao?

Theo cách nhìn và nhận định của cá nhân người viết bài này, tất cả phần lớn bọn họ đều là thứ chính trị sa lông, đại diện một nhóm thiểu số đảng phái hay tôn giáo mà đằng sau không có thực lực.

Như đã viêt trong đoạn kết của phần 5, cuối cùng dù thắng hay bại là ở nơi những kẻ ở lại. Chiến thắng hay thất bại hay không là thuộc về họ. Những kẻ đã chạ trốn, bỏ của chạy lấy người, cho dù lý luận cách nào đi nữa thì họ vẫn bị loại ra khỏi cuộc chơi.

Họ, tất cả đều bị loại ra khỏi cuộc chơi.

Cuộc chơi cuối cùng chỉ còn hai đối thủ, đối đầu giữa hai nhân vật là J.R. Saintenty và Ho Chi Minh trong một tuyên bố chung như sau.

“Déclaration

La France et le Viêt Nam viennent de signer des accords politiques.
Par ces accords, La France reconnait le Viet-Nam, État libre dans ce cadre de la fédération Indochinoise et au sein de l`Union Francaise. Le Viet Nam aura ses Gouvernements, son Parlement, ses Finances, son Armée propre.

Le Viet Nam acceuillera pacifiquement de son côté les troupes Francaises qui viennent relever les troupes Chinoises au Nord du 16e parallele, conformément aux conventions signées entre la France et la Chine.

Ces accords ramènent la paix sur le territoire du Viet Nam et mettent un terme à une période troublée des relations Franco-Vietnamien. La France et le Viet Nam vont reprendre d’un même élan leur marche vers le progrès politique, social, humain dans une collaboration loyale.

Vive la France et le Viet Nam, peuples libres associés dans l”Union Francaise!!

J.R Sainteny
Délégué du Haut Commissaire de France pour L’Indochine

Ho Chi Minh
Président du Gouvernement du Viet Nam” (Eric Deroo, Piere Vallaud, Indochine Francaise 1856-1956, Guerres, Mythes et Passions, nxb Perrin, trang 73)

1946 – Ký kết Hiệp định Sainteny-Ho Chi Minh

(Tuyên Bố chung. Pháp và Việt Nam vừa mới ký kết một thỏa thuận chính trị. Do thỏa thuận này, nước Pháp nhìn nhận Việt Nam, một quốc gia tự do trong khuôn khổ một Liên Minh Đông Dương nằm trong khuôn khổ Liên Hiện Pháp. Nước Việt Nam sẽ có một chính quyền riêng, một Quốc Hội riêng, tài chánh riêng, một quân đội riêng.
Nước Việt Nam sẽ đón tiếp một cách hòa bình quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa từ phía Băc, vĩ tuyến 16, đúng với thỏa ước đã được ký kết giữa Pháp và Trung Quốc.

Các thỏa ước này sẽ đem lại hòa bình trên lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt một giai đoạn hỗn loạn giữa mối liên lạc Viet-Pháp. Nước Pháp và Việt Nam sẽ tiếp tục đi tới những tiến bộ chính trị, xã hội và con người trong sự hợp tác chân thành.

Hoan hô nước Pháp và Viet Nam, những dân tộc tự do trong khuôn khổ liên Hiệp Pháp. Ký tên)

Mặc dầu nội dung thỏa ước này còn què quặt với những hoa từ thì đây cũng là những gì được ký kết chính thức giữa đại diện chính quyền Pháp và Hồ Chí Minh mà các đảng phái lãnh tụ Quốc gia đã không đủ tư cách có mặt, ngay cả ngài cố vấn tối cao.

Bảo Đại hay các đảng phải mà phần đông tìm chỗ trú ngụ tạm thời ở Quảng Đông đã không đủ tư thế để nói chuyện với người Pháp. Nay họ tìm đến Bảo Dại như một chỗ dựa, một uy tín chính trị như một giải pháp thứ ba, thay vì chống Pháp thì quay ra chống Việt Minh.

Và chính ở chỗ này sẽ hình thành trong tương lai cái mà người Pháp cũng như chúng ta thường có thói quen gọi là: La solution de Bao Đai. (Giải Pháp Bảo Đại).

Liệu giải pháp sẽ đem lại điều gì và kết quả ra sao? Và từ chỗ đó chấm dứt vai trò cố vấn tối cao để nhận một danh xưng mới: Quốc Trưởng Bảo Đại.

Về phía người Pháp, nay nhờ những tài liệu, thư từ , nhân chứng cho thấy họ đang phải đối đầu một cuộc chiến sói mòn mà những ngày tháng dễ dàng lúc ban đầu càng ngày như càng vuột khỏi tầm tay của họ. Trên thực tế thì ngay từ những ngay đầu cuộc chiến đã có nhưng dấu hiệu mệt mỏi, một tương lai không mấy sáng sủa cho quân đội viễn chinh Pháp qua một lá thư của một đại úy pháo binh viết cho người vợ ở Toulon ngày 13 tháng giêng, năm 1947 như sau:

“Chỗ anh ở đây, tình hình mỗi ngày một thêm trầm trọng. Đó là cuộc chiến du kích âm thầm, giống như cuộc chiến bưng biền trước đây ở Pháp, nhưng với một mức độ mất an ninh hơn nhiều, do hoàn cảnh địa lý thiên nhiên của xứ sở này cũng như của người dân quê bản xứ. Người ta sống trong tình trạng báo động liên tục, không thể nào đi ra ngoài vào buổi chiều mà không bị rủi ro bị đâm một nhát dao găm vào sau lưng hay một quả lựu đạn ở dưới chân. Ban đêm, phải phòng thủ bên trong khi nhiệt độ xứ này trung bình là 32 độ dưới bóng mát. (…) Đó là một cuộc chiến chênh lệch mà người ta có thể bị chết bất cứ lúc nào, ngay cả ở trong các vùng được coi là an toàn, bị bắn tỉa bởi một tên bắn tỉa trốn ở một góc xó nào đó (…) Người ta muốn ăn chuối, ăn dứa, gạo, sô cô la.. Người ta muốn cả cao su cho các đôi giầy đế crêpe như hồi trước chiến tranh. (…) Nhưng có nghĩa lý gì những điều đó. (…) Và thật là không đủ binh sĩ ở đây để có thể tự phòng ngự và như vậy rồi sẽ thua.” (Eric Deroon-Pierre Vallaud, ibid., trang 97)

(Chúng ta được biết, Pháp chỉ có hơn 100.000 quân đồn trú rải ra 917 đồn bót).

Phần mở đầu cho cuộc chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ tối 19 tháng 12, 1946

Kể từ tháng 3 đến 19-12-1946 là một khoảng trống chính trị trong đó không có mặt Bảo Đại tại Việt Nam. Nó đã dẫn đưa đến một cách không dừng được một cuộc chiến tranh Việt-Pháp mặc dầu với một cố gắng phi thường về phần Hồ Chí Minh cũng như nhượng bộ của ông Hồ đối với người Pháp.

Người Pháp bằng mọi giá muốn tái diễn sự có mặt của họ tại Việt Nam.

Việt Minh thì nhượng bộ đến một lúc không thể nhượng bộ được nữa thì chính Võ Nguyên Giáp là người phát động cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bằng cách dùng bộc pha cho nổ nhà máy đèn Hà Nội vào khoảng 9 giờ tối ngày 19 tháng12.

Rất tiếc là Pháp đã được thông báo qua thông tin tình báo nên đã chuẩn bị cuộc ứng chiến ngay từ phút đầu và chỉ trong một đêm, một ngày họ đã làm chủ tình hình Hà Nội và sau hai tháng đã xua đuổi cũng như tiêu diệt mọi chốt chiếm đóng của hơn 10 ngàn thanh niên xung phong, lực lượng được chỉ định cầm cự và bảo vệ thủ đô Hà Nội.

Theo trí nhớ của tôi thì thời gian ổn định không phải hai tháng mà chỉ trong vòng vài ngày thì không còn nghe tiếng súng tắc bọp nữa.

Tuy nhiên cuộc chiến đối đầu như chúng ta thấy sau này càng có dấu hiệu bất lợi khi người Pháp chủ trương xây dựng các đồn bốt mà người Pháp quen gọi là Guerre des Postes.

Sau này, thỉnh thoảng có nghe tiếng súng thì đó là tiếng súng liên thanh của lính tây mà thôi.

Về sự thiệt hại trong thành phố thì phải kể như Hà Nội còn nguyên vẹn.. Các khu phố tây thì hầu như không có đến một dấu vết đạn để lại trên các căn biệt thự, các cớ sở công thự như nhà bưu điện, sở toàn quyền, sở hành chánh, tài chánh, nhà thờ lớn Hà Nội, trường Albert Sarault, các cửa hàng trên phố Tràng Tiền hoặc chung quanh bờ hồ Hoàn Kiếm, phố Quan Thánh vv…

Nhưng trong phố cổ Hà Nội như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Than, do sự thúc đẩy của Tự vệ thành, buộc người dân phải tản cư. Rồi sau đó, tự vệ thành đào các ngạch tường như các lỗ chó chui để di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia.. Lâu lâu còn thấy sót lại một ụ đắp mô vội vã còn sót lại.

Trên một vài bức tường quét vôi còn sót lại vài câu tuyên truyền với hình vẽ còn sót lại như: Ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương, ai ai cũng có bổn phận cứu nước, quyết TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN đi đến ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN. Một câu khác: Hỡi đồng bào! Hãy vững gan bền chí. Chúng ta quyết đập tan gông, xích nô lệ và tin tưởng ở THẮNG LỢI CUốI CÙNG. Ta quyết thắng. Nhiều chỗ còn ghi hai thứ tiếng: Viet Nam Độc Lập! Viet Nam Indépendant!

Lúc ấy, tôi chỉ thấy chiến tranh là điều kỳ cục.

Ở khu phố cổ vốn xưa nay là nơi buôn bán sầm uất với đông người qua lại thi nay chúng trở thành những hoang địa. Ngoài mặt đường đầy những rác rưởi với cả đồ đạc giường tủ vất ngổn ngang, quần áo, đồ dùng trong nhà đủ loại vứt tung ra ngoài đường. Tuy nhiên, sau này tôi muốn đi “thổ phỉ” một cái áo lạnh cũng không có được. Người Hà Nội coi vậy cũng chẳng giàu có gì. Rời khỏi Hà Nội, họ cũng chuẩn bị quang gánh và đủ loại phương tiện chuyên để mang đi bất cứ thứ gì có thể mang đi được. Như quần áo, gạo thóc, nồi niêu xong chảo, thực phẩm khô như cá khô, muối vừng v.v.

Những người còn ở lại Hà Nội như tôi, dù không có bao nhiêu cũng không thể tìm kiếm được chút lương thực ít ỏi còn sót lại để sống qua ngày nếu không có sự tiếp tế của người Pháp thì sẽ rơi vào cảnh chết đói..

Chiến tranh thì chắc là phải có người chết. Nhiều là đàng khác. Vậy mà ngay sáng hôm sau, tôi biết chắc chắn có sự giao tranh giữa đôi bên và tưởng sẽ có nhiều người chết. Súng gỗ thì còn thấy vứt rải rác, nhưng người chết chắc đã được khuân di kịp thời nên không để lại dấu tích gì.

Kinh nghiệm chiến tranh của tôi cuối cùng chỉ là sự đói nghèo. Sự sợ hãi chỉ xẩy trong những ngày đầu. Người Pháp cũng như kiều dân Pháp không còn những ngày tháng quá khứ “vivre comme en Europe” sống như ở Pháp. Ít còn thấy những ông Tây thực dân, quần áo vét trắng, đội mũ cô lô nhần, xách ba tong đi nghênh ngang ngoài phố. Nhưng họ kín đáo hơn mặc dầu không tỏ ra thân thiện như trước chiến tranh.

Dầu vậy, Hà Nội chóng tìm lại được những sinh hoạt bình thường. Cái điều bình thường và thân quen nhất là hai toa tàu điện chạy từ phía Bờ Hồ, qua Ngã Tư Sở rồi cứ thế qua huyện Hàm Long hướng về phía Hà Đông. Tiếng kính keng quen thuộc, tiếng bánh xe điện rit trên đường sắt mỗi khi qua một khúc quanh.

Chỉ trong vài tháng thì đã có dấu hiệu của sinh hoạt buôn bán trở lại. Số lượng người hồi cư hay được gọi là dinh tê mỗi ngày mỗi đông.

Sự trở về đông đảo của dân chúng Hà Nội là một dấu hiệu tốt đẹp một ngày mai được thanh bình. Nhưng không phải vậy, mỗi ngày cuộc chiến diễn ra một cách ác liệt! và phân chia thế giới thành hai cực, biến cuộc chiến tranh mang hình thái tranh chấp ý thức hệ vượt tầm tay mọi người.

Kết quả là một chiến thắng và một xỉ nhục.

Hôm nay, nhìn lại cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954 trong một chiều kích không phải ý thức hệ, cũng không hẳn là cuộc chiến chống ngoại xâm theo lối nhìn thông thường.

Một chiều kích đặt trên nền tảng lý luận dựa trên ba phạm trù căn bản, nhờ đó có cái nhìn toàn diện bao quát toàn bộ cuộc chiến tranh để thấy rằng, tất cả không trừ ai, chúng ta đã làm một sự lãng phí quá to tát về sinh mạng con người, về tài sản thiên nhiên đã ban phát cho chúng ta chỉ vì những chọn lựa sai lầm của mỗi bên. Nhất là về tương lai con người Việt mà hậu quả ra ngoài sự thẫm định và đo lường của mọi người. Thắng hay bại, người Việt Nam vẫn cuối cùng là kẻ thua cuộc do những lý luận dựa trên 3 phạm trù sau đây

  • Phạm Trù thứ nhất: Sự canh tân, tiến bộ và phát triển

Những nhà lãnh đạo khôn ngoan và hiểu biết luôn luôn đặt cao sự canh tân, tiến bộ và phát triển như như mục tiêu hàng đầu đưa đất nước đi lên. Bệnh nghèo khó, sụ ngu dốt, sự thua kém người ngoài là do những căn bệnh trên. Vậy thì trước khi có đủ tiềm lực để có thể đương đầu với kẻ thù địch. Chúng ta trước hết phải đủ mạnh. Không có con đường nào khác giúp đất nước mạnh bằng con đường canh tân. Canh tân sẽ làm cho đất nước giầu mạnh không bị một bất cứ thế lực nào có thể chà đạp lên đất nước của mình. Dùng võ lực, sức mạnh quân sự chỉ là kế sách ngắn hạn. Chỉ có canh tân xứ sở mới là lũy trường thành bảo vệ bờ cõi. Vạn lý trường thành đã cho thấy sự thất bại của các vua chúa quan lại nước Tàu như thế nào. Nước ta kể từ các vua chúa đến sau này đến các lãnh tụ đảng phái, đến đảng cộng sản đều coi nhẹ chọn lựa canh tân. Chiến thắng xong rồi chỉ còn lại một tập đoàn lãnh dạo mà trình độ chỉ xấp sỉ qua bực tiểu học. Làm sao họ có thể lãnh đạo đất nước đi lên với sự dốt nát như thế? Họ đã coi rẻ kế sách canh tân nên đã rước họa cho cả dân tộc, gây cảnh lầm than chiến tranh kéo dài hàng trăm năm. Hết họa thực dân Pháp đến thực dân Nhật nay đến thực dân Tàu?

  • Phạm trù thứ hai: Chọn lựa sự nổi dậy hay sự nổi loạn

Từ văn chương thơ phú đến lịch sử VN đều đề cao sự nổi dậy như một phương thức duy nhất đem lại an bình. Lịch sử chỉ là lịch sử chiến tranh miên tục để bảo vệ bờ cõi thì ít mà để tranh dành quyền lực thay đổi một triều đại thì nhiều. Kẻ chiến thắng được gọi là anh hùng, kẻ thua gọi là giặc. Dưới triều đại nhà Nguyễn, có những thời kỳ ghi được 250 các cuộc nổi dậy. Thời VNCH, 20 năm miền Nam, giặc nội thù chính là sự tranh dành của các đảng phái trong những mưu toan lật đổ chính quyền hợp pháp. Cái ung nhọt lớn nhất của miền Nam tự do là sự quấy rối của hàng trăm đảng phái khác nhau. Mà mỗi đảng nhiều khi chỉ có cái tên, hữu danh vô thực. Từ một đảng lại chia ra nhiều hệ phái, từ hệ phái lại chia ra nhiều chi phái. Chia rẽ là chính. Rồi thiết lập Liên Minh, mặt trận thống nhất đến một lúc nào đó đều chìm xuồng. Hết nạn Đảng phái đến nạn Hội đoàn. Chỉ tính ở hải ngoại bây giờ thôi, chúng ta có hơn 500 Hội Đoàn. Càng có nhiều hội đoàn, dấu hiệu chia rẽ càng trầm trọng. Càng kêu gọi đoàn kết, càng đẻ thêm các mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn cá nhân với cá nhân, nhóm nọ nhóm kia, phe phái. Chưa bao giờ người Việt Nam biết học để kết đoàn. Sự chia rẽ là mầm mống của sụ bị lệ thuộc làm suy yếu tiềm lực dân tộc. Nhìn trong nước hiện nay cũng như ở hải ngoại, chúng ta đều thấy có chung mẫu số: sự chia rẽ và phân hóa.

  • Phạm trù thứ ba: Làm cách mạng

Đây là cái tai họa lớn nhất cho dân tộc. Lịch sử cho thấy các cuộc cách mạng, dù mang nhãn hiệu gì, rồi cũng đi đến chỗ đổ máu và một chế độ cai trị tàn bạo. Cách Mạng nào đã đem lại điều tốt đẹp cho con người? Hầu như không có. Riêng cuộc cách mạng của người cộng sản đưa đến sự lầm than và khốn nạn nhất cho nhân loại.

Ba phạm trù trên là kim chỉ nam giúp chúng ta nhìn lại.

Phần 7: Bảo Đại trong một vai trò mới, như lịch sử đã diễn ra như vậy.

(Còn tiếp)

© DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


DCVOnline biên tập và minh hoạ.

1 Comment on “Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (p6)

  1. NGƯỜI DÂN VÀ LÃNH ĐẠO

    Dân phần nhiều như cỏ
    Ưa trông vào cây cao
    Dựa vào đám vua chúa
    Hay nhân vật tào lao

    Vua chúa địa vị sẳn
    Dân không tin được nào
    Riêng nhiều anh láu cá
    Dân vẫn tin ào ào

    Bởi dân luôn ngắn cổ
    Thì còn hỏi ra sao
    Ngắn cổ lại bé miệng
    Nên thường hóa tầm phào

    Nhưng dân lại tất cả
    Không bột sao nên hồ
    Nhờ có dân giúp đỡ
    Quyền hành mới đạt cao

    Nhưng rồi đâu vào đó
    Dân vẫn cứ là dân
    Còn những anh chiến thắng
    Tha hồ đoạt công danh

    Chuyện ấy đã thường rồi
    Có gì đâu đáng nói
    Có chi để bồi hồi
    Lịch sử mãi tái mãi

    Như trong hồi Pháp thuộc
    Thế chiến hai xảy ra
    Pháp đeo bám không bỏ
    Dân ta thành mù lòa

    Đứng trước hai gọng kiềm
    Thực dân mới và cũ
    Hỏi ai người sáng suốt
    Hỏi đâu là niềm tin

    Bao xương máu bỏ ra
    Nhằm con đường giải phóng
    Bao xương máu bỏ ra
    Cho lá bài Bảo Đại

    Một đàng vua ăn chơi
    Một đàng nhà cách mạng
    Ăn chơi vô tích sự
    Cách mạng toàn viễn mơ

    Chiến tranh hóa ra thế
    Giống như sự vật vờ
    Bom đạn và nước mắt
    Lịch sử thành lơ mơ

    Lơ mơ vì nỗi sợ
    Biến ra kẻ khù khờ
    Thân phận thành vô định
    Vẫn tưởng là nên thơ

    Đấy dân là như thế
    Nói chung đều ù ờ
    Chủ yếu người lãnh đạo
    Đừng theo cách ậm ờ

    Ậm ờ do lệ thuộc
    Dân thành hóa ngây thơ
    Bị tuyên truyền nhồi nhét
    Đều ra chỉ dại khờ

    Nên lịch sử đáng thương
    Do con người lớ mớ
    Không tự làm chủ mình
    Khiến cuộc đời ậm ợ

    Bóng tối thành hào quang
    Như ngủ mê thành mớ
    Trong đêm thấy sáng trưng
    Quả cuộc đời dễ sợ

    Nhưng rồi cũng qua đi
    Những đoạn đời lớ ngớ
    Dân tộc dần trưởng thành
    Tương lai mới sáng rỡ

    Chủ yếu không mị dân
    Không khinh dân quá cỡ
    Mị dân vì lợi mình
    Lãnh tụ cũng mất thớ

    Song mọi điều rồi qua
    Như con sông bồi lở
    Lịch sử cả ngàn năm
    Mới thấy đâu hay dở

    Dẫu chỉ hoài tuyên truyền
    Nào có ai bỡ ngỡ
    Bởi sự thật ngàn đời
    Cuối cùng đều khai mở

    TIẾNG NGÀN
    (15/01/17)