Nhớ nhà

Nguyễn Sơ Ðông JJR 58

Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple citoyen) của quốc gia tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người ta đã đối xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.

“Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.”

“Milly ou la terre natale (I)”, Alphonse de LAMARTINE (1790-1869)

Trẻ câu cá. Photograph by Nico Fredia

Tôi muốn đổi chữ “brillant” thành “douloureux” vì trốn chui, trốn nhủi, vượt biên còn thua con chó đói, thì có gì là “brillant” nhưng sợ mang tội với Lamartine, lại thừa một “pied”.

Tôi là thằng “lăn chai”, lúc nhỏ suốt ngày ở ngoài đồng, lội hết mương nầy đến rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu, nhưng tôi cỡi trâu “nghề lắm”. Leo lên lưng trâu đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi, đứng vừa qua khỏi ngang nửa bụng trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi cho mình leo lên. Vậy mà thằng tui phóng lên ngang hông trâu cũng được, kẹp “đầu gối” (trâu) trước cũng xong, phăng lên bằng đầu gối sau cũng “phẻ” mà kéo đuôi cũng yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi nào “đá giò lái”, không “đá ngược” bạn bè.

Nắng, mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối xả, mưa nặng hột,… tắm mưa càng vui. Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới thôi. Một lát có khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.

Tụi chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ hết: làm sao “cột dàm” con nghé để nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập mầy đó (không đập trâu đâu, vì chổi chà có thắm thía gì nó). Nhìn dấu ở cửa hang là biết có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau lắm). Bắt cá bống kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại, câu cá trê phải sửa soạn mồi trước: đập mấy con ốc bươu, để qua bữa sau có mùi hôi hôi là cá trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá ròng ròng coi chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh con (ròng ròng là cá lóc con, cỡ 1/2 ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon hơn caviar nữa. Mà tôi có bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo vậy!) Bọt trắng nhuyễn trên mặt “mương”, nhưng bọt nào là ổ cá chìa vôi, chả làm gì được hết, bọt nào là ổ cá “xiêm”, loại cá lia thia xanh mun, đá chết bỏ chứ nhứt định không chạy.

Lên Saigon, “lội” gần hết “hang cùng ngõ hẹp” của quận Tư (sau nầy là quận Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội), chui vào Ðại Thế Giới coi hát “cọp”, băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy (Bảy Viễn), đi chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm Tháng Bảy.

“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông”

(“Áo lụa Hà Đông”, Nguyên Sa)

Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Ðông ở đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa mà sửa lại:

“Nắng Saigon, tui đi mà chẳng ngán
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.”

Ra Chasseloup, đến mùa me chín, leo lên “rung” mạnh. Me rụng đầy đầu tụi ở dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng Ðông chớ ai vô đây.

Trước Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái tròn, ngọt, cây chót vót, lại cũng thằng Ðông leo. Sau 75, tôi vẫn còn thấy hai cây nầy, già lão rồi, có ai để ý tới làm chi.

Vào lính, theo đơn vị hành quân, nhớ từng con suối nhỏ, từng gò mối, từng cây cầu khỉ,… nhứt là những nơi “đụng” nặng. Lính tử trận. Quan cũng đền nợ nước. Thứ Hai, người vợ trẻ đưa chồng lên Ðức Hòa. thứ Bảy, đã chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn thương vẫn nhớ cái quận “nắng bụi, mưa bùn”… nghèo xơ nghèo xác nhưng đầy ấp tình người. Hoàng hôn xuống, nghe ễnh ương, nhái bầu, nhái bén, cả bao nhiêu thứ côn trùng hòa tấu “symphonie pastorale” nghe mà rụng rún.

Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe… có đâu mà nghe.

“Lòng quê đi một bước đường một đau.” (Kiều)

Tâm trạng nhớ nhà là vậy

Tôi không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình cảm của ai khác. Riêng với tôi thì: tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì với thời gian cũng sẽ khuây khỏa, rồi phai, rồi tàn và rồi thuộc về dĩ vãng, dù nó “apporte chaque jour tout le bien, tout le mal”.

Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ. Như một định luật tự nhiên, “tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất nước” nhiều,… khi về già, nhớ nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.

Cái khổ là càng muốn quên, càng lại nhớ. Có những đêm thức giấc, nhớ quá, không tài nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà nhớ. Nhớ NHÀ!

Lúc ở Chasseloup, đọc sách tả Tour Eiffel, Montparnasse, Les Invalides, Chateaux de la Loire… náo nức muốn xem lắm. Giờ xem qua rồi thì “thôi”. Nó không “thấm” vào xương, vào tủy, vào tim, vào óc như cái nhớ nhà.

“…Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương.

(“Làng Tôi”, Chung Quân)

Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai”. Thôi đành chịu vậy.

Mấy trang viết nầy không đầu, không kết, ý tứ lung tung, “à bâtons rompus”, “du coq-à-l’âne”. Bà con có xem thì “xính xái”, từ bi hỉ xả giùm. Thiện tai, thiện tai.

Thôi thì cứ xem như “mémoires d’outre tombe” của tôi vậy.

Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi

“Quando Satis Dixisti, Peristi”

(Quand tu auras dit assez, tu seras mort, St Augustin)

“…Mai này trong chuyến tàu thiên cổ
Nếu có người thương tiếc tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa…”

(“Đất Gọi Người Đi”, Giang Hữu Tuyên)

Ðúng, hệ lụy núi sông xưa!

“Objets inanimés, avez vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“

Thôi đành

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng thử nhân sầu”

(“Hoàng Hạc Lâu”, Thôi Hiệu)

Vậy, tôi đã làm được gì?

Gia Ðình: Trả hiếu?

– Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì đâu, nhứt là mấy tháng cuối cùng, mỗi lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì, cô, cậu… (đều ở nhà tôi để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má con ngủ”, ngủ yên… Yên giấc ngàn thu.

– Tôi có làm được gì giúp Ba tôi đâu. Chưa xong Y khoa, niềm an ủi duy nhứt của tôi là: tôi đã cố hết sức nghe lời Ba tôi, dĩ nhiên, đôi lần chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không vui.

– Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết định “sinh tử”: chết thì chết chung, không thể sống với VC được. Tụi nó không lương tâm, không tim, không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ, không ai ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp ba”. Ðó là nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi không muốn nhắc tên mới của trường) khi đứa con trưởng của tôi học xong lớp 9 (classe de 3è) không được lên lớp 10 (classe de seconde). Ðuổi học.

Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai câu thơ của một nhà văn “gốc lính”

“Cúi đầu tạ với quê hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh.”

(“Cúi Đầu Tạ Với Quê Hương”, Trần Quốc Bảo)

Tôi đã đội trên đầu sáu chữ: Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm. Ngày nào còn thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt thì trách nhiệm của tôi với tổ quốc VNCH mới kể là hết.

“Je ne fléchirai pas! Sans plainte dans la bouche,
Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel! Liberté, mon drapeau!”

(“Ultima verba”, Victor Hugo (1802-1885)

Thay lời cuối

Những dòng sau đây, tôi:

– Kính dâng quý trưởng thượng, niên trưởng đã rời Việt Nam trước 30.04.1975

– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa “nếm” mùi VC.

Tôi dạy Vạn Vật ở Petrus Ký từ năm 1963. Lúc bấy giờ, thi Tú Tài 1 và 2 còn vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch thí sinh trước khi cho điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả giáo sư đều xử sự như thế.

Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y dược, y cụ…) của đơn vị tôi bị VC (đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các hãng kế cận) đóng chốt. Tôi phải liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố vấn cho tư lệnh sư đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ 73 tồn trữ y dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ sinh.

Trớ trêu thay: người thương binh đầu tiên được truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một VC.

Dãy lôt cốt này đã được sử dụng làm phòng truyền tin và trung tâm hành quân của sư đoàn 25 VNCH và chi khu Đức Hòa. Nguồn: http://saigonvietn.blogspot.ca

Trong hơn bốn năm trấn ở Ðức Hòa, tôi đã gọi tản thương bằng trực thăng về Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười VC bị thương nặng. Không tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi “chầu bác” rồi.

Dù mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ sáng,… chưa lần nào phi hành đoàn hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay VC. Tất cả đơn vị Quân Y QLVNCH đều làm như thế.

Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý nghĩ thật trong sáng: Tôn chỉ của dân VNCH, của QLVNCH, của chính phủ VNCH là Tôn Trọng Con Người, cách hành sự chứa đầy tình người.

Sau Tháng Tư 1975, bọn khát máu chóp bu VC đã ra lệnh phá tan nát xã hội miền Nam, mà nền tảng là gia đình. Bao nhiêu gia đình sĩ quan QLVNCH, viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.

Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi bị ép tử, bỏ cho chết, chết đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế mới.

Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy” bị ép buộc qua Cambodia làm bia đỡ đạn cho VC.

Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt mạng trên đường tìm tự do, thoát ách VC.

Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lần nào mà người dân Việt Nam, vốn rất gắn bó với “quê cha đất tổ”, với “mồ mả ông bà” liều chết, bỏ nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.

Tôi viết để quý vị trưởng thượng và thế hệ trẻ hiểu được mức độ khát máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của VC.

Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn VC vì:

  1. Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản miền Nam
  2. VC không xứng đáng để tôi thù hằn, vì VC đã mất hẳn tính và tình người.

Tôi rất cám ơn, thương mến, kính yêu “bà xã” tôi đã chịu bao nhiêu cay đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo cho bốn đứa con tôi.

Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple citoyen) của quốc gia tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người ta đã đối xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: http://aejjrsite.free.fr, Magazine Good Morning, 1er avril 2012 ©D.R. Nguyễn Sơ Đông. DCVOnline hiệu đính và minh hoạ.

1 Comment on “Nhớ nhà

  1. TÌNH QUÊ HƯƠNG

    Trái đất như trái chanh
    Một màu xanh mơn mỡn
    Nó quay quanh mặt trời
    Bốn mùa đều ánh sáng

    Trái chanh vỏ sần sùi
    Có khác nào mặt đất
    Bao núi đồi sông suối
    Con người sống ở trên

    Tùy hình thế quê hương
    Nơi chôn nhau cắt rốn
    Mỗi người đều lớn lên
    Quê hương là tất cả

    Quê hương đầy tình người
    Thiên nhiên và nhân loại
    Đời đâu phải ngang bằng
    Mỗi nơi một tình huống

    Có em bé chăn trâu
    Nơi đồng quê cực khổ
    Có em bé thị thành
    Song quê hương vẫn đẹp

    Từng đã thời tao loạn
    Con người ép buộc nhau
    Qua ngôn từ súng đạn
    Chiến tranh bao thương đau

    Nó làm tình người mất
    Hay phải lặn sâu vào
    Khiến bề ngoài sỏi đá
    Đời mất đi tinh khôi

    Cái tinh khôi bị chưởi
    Bị lên án một thời
    Tinh thần hóa vật chất
    Xã hội thành lêu têu

    Vì mỗi người cần sống
    Đành phải chịu kiểu lèo
    Vỏ chanh hóa vàng vọt
    Bởi loài sâu đục vào

    Thiên nhiên thành buồn bả
    Xã hội phải tầm phào
    Nhưng đâu toàn tất cả
    Thế giới vẫn sinh sôi

    Thành mỗi nơi mỗi cảnh
    Ai lại không bồi hồi
    Dù người mỗi định mệnh
    Ai cũng đều thế thôi

    Tựa cây chanh sinh quả
    Đâu trái nào giống nhau
    Muốn chúng đều giống hệt
    Thảy chỉ kẻ ngu lâu

    Nhưng mọi sự rồi qua
    Chiến tranh nào cũng hết
    Duy cái ngu con người
    Có khi nào đoạn tuyệt

    Bởi ngu nên tưởng khôn
    Hay chỉ nhằm lợi dụng
    Cốt lường gạt lẫn nhau
    Khác nào kiểu thầy cúng

    Thầy cũng úm ba la
    Nhưng sự đời đâu đổi
    Bởi đời luôn khách quan
    Nhưng gà xôi thầy hưởng

    Con người luôn là thế
    Xã hội thường giống nhau
    Có người mê người tỉnh
    Kẻ quỷ khóc thần sầu

    Nhưng rồi đời qua hết
    Như con nước muôn màu
    Dòng sông đời vẫn chảy
    Còn địa cầu vẫn quay

    Việc đời vẫn cứ thế
    Lịch sử dài ngàn năm
    Có khi nào trụ lại
    Có người nào muôn năm

    NGÀN TRĂNG
    (17/9/17)