Cuộc tranh luận lớn của Việt Nam về dân chủ

Trien Vinh Le | Trà Mi

Cải cách chính trị năng động có thể giải quyết xung đột ý thức hệ nội bộ – và giúp phân biệt Việt Nam với Trung Hoa.

Credit: pixabay

Đổi mới”, cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát nghèo. Tuy nhiên, sau ba mươi năm tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối phó với những hệ quả liên quan như suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát tài nguyên quốc gia vì tham nhũng. Hơn nữa, sự phụ thuộc của Việt Nam vào vốn đầu tư nước ngoài mà không tận dụng được tác động lan tỏa của kỹ thuật và quản lý đã không thể làm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào lao động rẻ và không có tay nghề. Tình trạng nghiêm trọng này càng trở nên trầm trọng hơn do thay đổi dân số, phần lớn vig dân số già đi. Nhiều người lo ngại rằng cái bẫy thu nhập trung bình sẽ bỏ Việt Nam lại phía sau khi sự canh tân thúc đẩy các nền kinh tế phát triển khác cạnh tranh mạnh hơn trên toàn cầu trong thời đại thông tin.

Lấy cảm hứng từ những câu chuyện phát triển của các nước Đông Á đã thu gặt được những lợi ích của việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, có nhiều ý kiến chính thức và không chính thức cho rằng Việt Nam cần một công cuộc đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị. Nếu các thể chế và thực hành chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và kỹ thuật. Thật thích đáng khi đặt câu hỏi làm thế nào hệ thống chính phủ hiện tại có thể mở ra một kỷ nguyên chuyển đổi kinh tế mới khi mà rất nhiều người ở thượng tần quyền lực hưởng lợi từ mô hình cũ dựa trên khai thác lao động và tài nguyên thiên nhiên.

Cải cách thể chế đang được tiến hành nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật lệ để tránh chồng chéo và trùng lặp. Các khái niệm như tam quyền phân lập (tức là ba nhánh của chính phủ) hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với chính phủ. Mặc dù khái niệm “dân chủ” đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của Việt Nam – cùng với “công bằng”“văn minh” – “dân chủ hóa” vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta cho rằng (và lo sợ) rằng nó sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị. và do đó đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng của Việt Nam. Chính phủ tin rằng chế độ thống nhất chính trị (bề ngoài) như hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.

Trong những năm 1970 và 1980, các quốc gia dân chủ như Nam Hàn và Đài Loan đã cho thấy cách đa nguyên chính trị có thể vượt qua các nút thắt kinh tế. Đồng thời, các mô hình dân chủ xã hội ở các nước scandinavian cho thấy các giá trị xã hội chủ nghĩa và hệ thống dân chủ tương thích và thậm chí hiệu quả như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, nhà chức trách Việt Nam cho rằng Việt Nam có bối cảnh lịch sử, chính trị và văn hóa độc đáo mà hầu như không mô hình bên ngoài nào có thể áp dụng được. Thật vậy, những trí thức cực đoan suy đoán rằng chính phủ cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do đảng cộng sản Trung Hoa đang áp dụng.

Điều này đã dẫn đến hố sâu chia rẽ ý thức hệ. Một bên tiếp thu mô hình hiện tại và luôn chỉ ra những khiếm khuyết và thất bại của các nước đã dân chủ hóa. Phe còn lại ủng hộ mô hình chính trị đa nguyên bị các đối thủ ý thức hệ bác bỏ là không phù hợp với Việt Nam. Có thể học được gì từ cuộc tranh luận này?

Quan điểm tĩnh so với động về dân chủ hóa

Có thể nói, cả hai bên của hố chia rẽ ý thức hệ này đều có những hạn chế trong suy nghĩ. Có nghĩa là, cả hai đều coi những thay đổi về thể chế là một quá trình tĩnh hơn là động. Vì Việt Nam là một quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi, việc cải cách thể chế chính trị thích ứng là cần thiết để duy trì sự vận động hướng tới một hệ thống dân chủ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – như đã thấy trong chặng đường lịch sử của rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Đồng thời, các mô hình dân chủ không phải là không có sai sót, như việc bầu cử các nhà lãnh đạo và các đảng phái ở rìa ý thức hệ hệ đã cho thấy ở các nước trên thế giới trong những năm gần đây (ví dụ như ở Mỹ, Brazil và một phần của Đông Âu).

Vì vậy, người dân Việt Nam phải chấp nhận trách nhiệm chung để cân bằng quyền lực và liên tục điều chỉnh hướng đi. Dân chủ là một giá trị phổ quát được chấp nhận vì, ở mức độ thuần túy nhất, nó là hệ thống tốt nhất để bảo đảm một xã hội công bằng và bình đẳng bằng một “chính phủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,” như Abraham Lincoln đã nói.

Trích Diễn văn Gettysburg của TT Mỹ Abarham Lincoln ngày 19 tháng 11, 1963.

Về bản chất, một chính phủ đang và cần phản ảnh lợi ích của người dân để bảo vệ quyền của bất kỳ cá nhân nào được tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng. Trong một quốc gia công bằng và bình đẳng, chính phủ bảo vệ các giá trị và thể chế dân chủ. Để đạt được lý tưởng này, xã hội phải quyết tâm và kiên định vượt qua những rào cản trên con đường đi tới dân chủ và thực hiện điều đó bằng các phương tiện hòa bình, hữu ích và công bằng.

Do đó, một cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trên con đường đó, mọi quốc gia văn minh tiến bộ dựa trên hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và kinh tế của mình. Sự cố định với hệ thống hiện tại (gồm cả những lợi ích hiện đang được hưởng lợi từ nó) và việc áp dụng cứng nhắc một mô hình nhất định dựa trên những ý thức hệ cứng ngắt về kinh tế và các mối quan hệ chính phủ-xã hội là một quan hệ tĩnh, tự đánh bại và không phát triển, không có khả năng tạo ra sự linh hoạt cần thiết để hiện đại hóa các thể chế và cơ cấu kinh tế. Ở Việt Nam, cả chính phủ và các đối thủ kiên quyết của họ đều rơi vào hai thái cực trái ngược nhau.

Con đường thực tế tiến phía trước là sự hiểu biết dựa trên sự đồng thuận về sự tiến bộ, công nhận nhiều lợi ích và cung cấp không gian để thể hiện hiệu quả mà không gây ra hậu quả tiêu cực. Trong hoàn cảnh đó, bế tắc của tư duy ý thức hệ có thể bị phá vỡ và tất cả những ý tưởng mới đều có thể được xem xét. Cách tiếp cận này giải quyết các mâu thuẫn đặc trưng của ý thức hệ, hướng cuộc tranh luận từ việc nên chọn mô hình quy định này hay mô hình khác đến cách có thể tạo ra một hệ thống mới kết hợp các khía cạnh được cho là hữu ích và công bằng. Cách đối thoại hiệu quả này giúp mọi bên nói chuyện với nhau một cách trung thực và hiệu quả hơn – một lực lượng ổn định tập trung vào lợi ích chung hơn là những ý thức hệ được bảo vệ và lợi ích tự phục vụ. Các vấn đề liên quan đến tam quyền phân lập, xã hội dân sự và khả năng đa nguyên chính trị cần được thảo luận một cách cởi mở và thông cảm dựa trên thực tế của Việt Nam. Các trí thức Việt Nam và các chủ thể chính phủ có thể chia sẻ tầm nhìn của họ trên toàn cầu về cả những bất ổn và cơ hội trong các nền dân chủ cũng như quá trình dân chủ hóa nói chung.

Những quan hệ mật thiết đến trường hợp Trung Hoa

Bất chấp xu hướng tiến bộ trong việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, chính quyền cộng sản Trung Hoa ngày càng củng cố quyền lực chính trị của họ bằng tính hợp pháp do các thành tựu kinh tế mang lại (đây cũng là một cách lý luận đầy khiếm khuyết). Trung Hoa cũng đang tận dụng lợi thế toàn cầu về tầm cỡ độc đáo của mình, một lựa chọn không có ở Việt Nam. Trong nỗ lực định vị toàn cầu của Trung Hoa, các trí thức Trung Hoa – dù vô tình hay cố ý – buộc phải tuân thủ các ý thức hệ nhân danh lòng yêu nước. Họ thường chọn ủng hộ các nỗ lực của chính phủ nhằm củng cố quyền lực nhà nước và hạn chế sự tham gia của công chúng vào các vấn đề chính sách và chính trị. Những lời kêu gọi khiêm tốn hóa dân chủ trong bối cảnh Trung Hoa dễ dàng bị bóp nghẹt bằng việc kiểm soát thông tin và hạn chế tổ chức chính trị và những hoạt động liên quan.

Do đó, sự ổn định của Trung Hoa phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát của chính phủ đối với thông tin đối với người dân, với tính chính danh của đảng cộng sản phần lớn đạt được sau nhiều chục năm tăng trưởng kinh tế và gần đây là bằng những các cuộc tấn công địa chính trị (đặc biệt là ở vùng biển phía Nam Trung Hoa, Hong Kong, và Đài Loan). Cách giải quyết này hiện có thể ổn định môi trường chính trị trong nước nhưng chỉ làm tăng khả năng bất ổn ở nước ngoài. Như vậy, chính phủ phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn bất kỳ sự mất quyền lực hoặc nhận thức về mối đe dọa đối với quyền lực.

Việt Nam không thể và cũng không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vậy.

Trái lại, với việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận những giá trị của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc cai trị trong đó quyền lực của nhân dân là tối quan trọng. Khi đó, trí thức Việt Nam và chính phủ sẽ lấy lại lợi thế riêng của mình – lợi thế của việc thảo luận cởi mở và thiết thực, xét đến tất cả mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ phân biệt Việt Nam với Trung Hoa. Đường đi đến quyền lực chính phủ của hai nước hoàn toàn khác nhau, do nền tảng lịch sử, chính trị và văn hóa khác nhau, như chính phủ đã nêu.

Tác giả | Trien Vinh Le, Ph.D., là giảng viên cao cấp Trường Chính phủ, Đại học Kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh.

© 2021 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Vietnam’s great debate over democracy | Trien Vinh Le | The Diplomat | April 15, 2021